My mom has always reminded me that I have the same proportions as a LEGO man.
Mẹ tôi luôn nhắc nhở tôi rằng tôi có nhiều nét giống người LEGO.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And she does actually have a point. LEGO is a company that has succeeded in making everybody believe that LEGO is from their home country. But it's not, it's from my home country. So you can imagine my excitement when the LEGO family called me and asked us to work with them to design the Home of the Brick. This is the architectural model -- we built it out of LEGO, obviously.
Và bà ấy thực sự có lý. LEGO là một công ty thành công trong việc khiến mọi người tin rằng LEGO đến từ quê nhà họ. Nhưng không, nó đến từ quê nhà của tôi. Vậy nên bạn có thể tưởng tượng ra sự hào hứng của tôi khi LEGO gọi đến và mời chúng tôi cùng họ thiết kế Nhà Gạch. Đây là mô hình kiến trúc - rõ ràng chúng tôi đã xây dựng nó từ LEGO.
This is the final result. And what we tried to do was to design a building that would be as interactive and as engaging and as playful as LEGO is itself, with these kind of interconnected playgrounds on the roofscape. You can enter a square on the ground where the citizens of Billund can roam around freely without a ticket. And it's probably one of the only museums in the world where you're allowed to touch all the artifacts.
Và đây là kết quả cuối cùng. Điều chúng tôi cố gắng làm là thiết kế một tòa nhà có tính tương tác vừa lôi cuốn lại vừa vui vẻ như chính LEGO, với các sân chơi liên kết với nhau trên sân thượng. Bạn có thể vào một khu của sân nơi mà người dân Billund có thể rong chơi miễn phí không cần vé. Có lẽ nó là một trong các bảo tàng duy nhất trên thế giới cho phép bạn chạm vào hiện vật.
But the Danish word for design is "formgivning," which literally means to give form to that which has not yet been given form. In other words, to give form to the future. And what I love about LEGO is that LEGO is not a toy. It's a tool that empowers the child to build his or her own world, and then to inhabit that world through play and to invite her friends to join her in cohabiting and cocreating that world. And that is exactly what formgivning is. As human beings, we have the power to give form to our future.
Nhưng từ thiết kế trong tiếng Đan Mạch là "formgivning", có nghĩa là tạo ra hình dáng chưa từng được tạo ra. Nói cách khác chính là kiến tạo hình dáng cho tương lai. Và điều tôi yêu ở LEGO là nó không phải đồ chơi. Đó là công cụ giúp trẻ xây dựng thế giới của riêng mình, và sống trong thế giới ấy thông qua vui chơi và mời những người bạn của mình cùng sống và kiến tạo nên thế giới đó. Từ "formgivning" có nghĩa chính xác là vậy. Là con người, chúng ta có sức mạnh kiến tạo hình dáng cho tương lai.
Inspired by LEGO, we've built a social housing project in Copenhagen, where we stacked blocks of wood next to each other. Between them, they leave spaces with extra ceiling heights and balconies. And by gently wiggling the blocks, we can actually create curves or any organic form, adapting to any urban context. Because adaptability is probably one of the strongest drivers of architecture.
Được truyền cảm hứng bởi LEGO, chúng tôi vừa xây dựng một dự án nhà ở xã hội tại Copenhagen, nơi chúng tôi đã chất các khối gỗ cạnh nhau. Giữa chúng là những khoảng không dư cho chiều cao trần nhà và ban công. Và bằng việc di chuyển nhẹ nhàng những khối gỗ, chúng tôi có thể tạo đường cong hay bất kỳ hình dáng nguyên sơ nào, thích nghi với bối cảnh đô thị bất kỳ. Vì thích nghi có lẽ là một trong những động lực dẫn lối mạnh nhất của kiến trúc.
Another example is here in Vancouver. We were asked to look at the site where Granville bridge triforks as it touches downtown. And we started, like, mapping the different constraints. There's like a 100-foot setback from the bridge because the city want to make sure that no one looks into the traffic on the bridge. There's a park where we can't cast any shadows. So finally, we're left with a tiny triangular footprint, almost too small to build. But then we thought, like, what if the 100-foot minimum distance is really about minimum distance -- once we get 100 feet up in the air, we can grow the building back out. And so we did.
Một ví dụ khác là ở đây tại Vancouver. Chúng tôi được yêu cầu nhìn ra ngã ba cầu Granville ngay phần nó chạm tới nội đô. Và chúng tôi bắt đầu vẽ ra các hạn chế. Có một khoảng lùi công trình hơn 30m từ cây cầu vì thành phố muốn đảm bảo không ai quan sát giao thông trên cầu. Có một công viên nơi chúng tôi không thể phủ bóng lên. Cuối cùng, chúng tôi chỉ còn lại một hình tam giác tí hon cỡ dấu chân, gần như quá nhỏ để xây dựng. Nhưng rồi chúng tôi nghĩ, sẽ ra sao nếu khoảng cách 30m kia là khoảng cách tối thiểu - một khi có 30m trên không, chúng tôi lại có thể xây dựng công trình. Và chúng tôi đã làm vậy.
When you drive over the bridge, it's as if someone is pulling a curtain aback, welcoming you to Vancouver. Or a like a weed growing through the cracks in the pavement and blossoming as it gets light and air. Underneath the bridge, we've worked with Rodney Graham and a handful of Vancouver artists, to create what we called the Sistine Chapel of street art, an art gallery turned upside down, that tries to turn the negative impact of the bridge into a positive. So even if it looks like this kind of surreal architecture, it's highly adapted to its surroundings.
Khi bạn lái xe qua cầu, nó như thể ai đó vén tấm màn lên, chào mừng bạn tới Vancouver. Hay như cỏ dại mọc ở các khe trên vỉa hè và phát triển khi gặp ánh sáng và không khí. Dưới cây cầu, chúng tôi làm việc với Rodney Graham và một nhóm các nghệ sĩ Vancouver, để tạo nên thứ mà chúng tôi gọi là Nhà nguyện Sistine đường phố, một phòng tranh lộn ngược, cố gắng biến tác động tiêu cực của cây cầu thành tích cực. Nên dù trông như kiến trúc siêu thực, nó có khả năng thích ứng cao với mọi thứ xung quanh.
So if a bridge can become a museum, a museum can also serve as a bridge. In Norway, we are building a museum that spans across a river and allows people to sort of journey through the exhibitions as they cross from one side of a sculpture park to the other. An architecture sort of adapted to its landscape.
Nếu một cây cầu có thể thành bảo tàng, thì bảo tàng có thể được dùng như cây cầu. Ở Na Uy, chúng tôi đang xây một bảo tàng trải dài qua một con sông và đem đến cho mọi người một chuyến đi qua các buổi triển lãm khi họ băng từ đầu công viên điêu khắc này sang đến đầu bên kia. Một lối kiến trúc thích nghi với quang cảnh.
In China, we built a headquarters for an energy company and we designed the facade like an Issey Miyake fabric. It's rippled, so that facing the predominant direction of the sun, it's all opaque; facing away from the sun, it's all glass. On average, it sort of transitions from solid to clear. And this very simple idea without any moving parts or any sort of technology, purely because of the geometry of the facade, reduces the energy consumption on cooling by 30 percent. So you can say what makes the building look elegant is also what makes it perform elegantly. It's an architecture that is adapted to its climate.
Ở Trung Quốc, chúng tôi xây dựng trụ sở cho một công ty năng lượng và thiết kế mặt tiền như chất vải của nhà thiết kế Issey Miyake. Nó gợn sóng, nên khi gặp hướng nắng mạnh, toàn bộ đều không thấu quang; khi ngược nắng, toàn bộ lại như thủy tinh. Trung bình, nó chuyển đổi liên tục từ đặc sang trong suốt. Và ý tưởng đơn giản không cần di chuyển phần nào hay bất kỳ công nghệ nào này, hoàn toàn là vì hình học của mặt tiền, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng vào việc làm mát đến 30%. Bạn có thể nói rằng thứ làm tòa nhà trông tao nhã cũng là thứ khiến nó vận hành tao nhã. Đó là lối kiến trúc thích nghi với khí hậu.
You can also adapt one culture to another, like in Manhattan, we took the Copenhagen courtyard building with a social space where people can hang out in this kind of oasis in the middle of a city, and we combined it with the density and the verticality of an American skyscraper, creating what we've called a "courtscraper."
Bạn cũng có thể thích nghi văn hóa với cái khác, như tại Manhattan, chúng tôi đem kiến trúc tòa nhà có sân Copenhagen với không gian mở nơi mọi người có thể tụ tập như một ốc đảo giữa lòng thành phố, kết hợp nó với chiều sâu và chiều dọc của một tòa nhà chọc trời Mỹ, để tạo nên thứ chúng tôi gọi là "tòa nhà chọc trời sân vườn".
From New York to Copenhagen. On the waterfront of Copenhagen, we are right now finishing this waste-to-energy power plant. It's going to be the cleanest waste-to-energy power plant in the world, there are no toxins coming out of the chimney. An amazing marvel of engineering that is completely invisible. So we thought, how can we express this? And in Copenhagen we have snow, as you can see, but we have absolutely no mountains. We have to go six hours by bus to get to Sweden, to get alpine skiing. So we thought, let's put an alpine ski slope on the roof of the power plant. So this is the first test run we did a few months ago. And what I like about this is that it also show you the sort of world-changing power of formgivning. I have a five-month-old son, and he's going to grow up in a world not knowing that there was ever a time when you couldn't ski on the roof of the power plant.
Từ New York tới Copenhagen. Bên bờ sông Copenhagen, giờ chúng tôi đang hoàn thiện nhà máy xử lý rác thành năng lượng. Nó sẽ là nhà máy xử lý rác thành năng lượng sạch nhất thế giới, không có chất độc từ ống khói. Một kỳ quan tuyệt vời của kỹ thuật hoàn toàn vô hình. Nên chúng tôi nghĩ, làm sao thể hiện điều đó ra ngoài? Và ở Copenhagen chúng tôi có tuyết, như bạn có thể thấy, nhưng chúng tôi không có ngọn núi nào. Chúng tôi phải đi xe buýt sáu tiếng để đến Thụy Điển trượt tuyết trên núi. Chúng tôi nghĩ, hãy đặt một con dốc trượt lên mái của nhà máy năng lượng. Đây là bước chạy thử đầu tiên mà chúng tôi thực hiện vài tháng trước. Điều tôi thích là nó cũng cho bạn thấy sức mạnh thay đổi thế giới của formgivning. Tôi có một con trai năm tháng tuổi, và thằng bé sẽ lớn lên trong một thế giới không biết về việc từng có thời bạn không thể trượt tuyết trên mái nhà máy năng lượng.
(Laughter)
(Tiếng cười)
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
So imagine for him and his generation, that's their baseline. Imagine how far they can leap, what kind of wild ideas they can put forward for their future.
Hãy tưởng tượng ở thời của thằng bé và thế hệ của nó, đó là đường cơ sở. Tưởng tượng chúng có thể nhảy xa thế nào, ý tưởng hoang dã nào chúng có thể đặt ra cho tương lai mình.
So right in front of it, we're building our smallest project. It's basically nine containers that we have stacked in a shipyard in Poland, then we've schlepped it across the Baltic sea and docked it in the port of Copenhagen, where it is now the home of 12 students. Each student has a view to the water, they can jump out the window into the clean port of Copenhagen, and they can get back in. All of the heat comes from the thermal mass of the sea, all the power comes from the sun. This is the first 12 units in Copenhagen, another 60 on their way, another 200 are going to Gothenburg, and we're speaking with the Paris Olympics to put a small floating village on the Seine. So very much this kind of, almost like nomadic, impermanent architecture.
Ngay trước nó, chúng tôi xây dựng một dự án nhỏ nhất. Cơ bản đó là chín container mà chúng tôi xếp chồng lên ở xưởng đóng tàu tại Ba Lan, rồi chúng tôi mang nó qua biển Baltic và neo đậu nó ở cảng Copenhagen, nơi giờ là căn nhà của 12 học sinh. Mỗi học sinh có hướng nhìn đẹp ra biển, chúng có thể nhảy ra khỏi cửa sổ xuống con cảng sạch sẽ Copenhagen, và rồi lại trở lên. Tất cả nhiệt lượng từ khối nhiệt của biển, tất cả năng lượng từ Mặt Trời. Đó là 12 khu đầu tiên ở Copenhagen, và đang sắp tới sẽ có 60 cái nữa, 200 cái nữa sẽ có tại Gothenburg, và chúng tôi đang bàn với Paris Olympics để đặt một ngôi làng nổi nho nhỏ trên sông Seine. Rất giống kiểu kiến trúc du mục và tạm thời.
And the waterfronts of our cities are experiencing a lot of change. Economic change, industrial change and climate change. This is Manhattan before Hurricane Sandy, and this is Manhattan after Sandy. We got invited by the city of New York to look if we could make the necessary flood protection for Manhattan without building a seawall that would segregate the life of the city from the water around it. And we got inspired by the High Line. You probably know the High Line -- it's this amazing new park in New York. It's basically decommissioned train tracks that now have become one of the most popular promenades in the city.
Và các bờ sông của thành phố đang trải nghiệm sự thay đổi. Thay đổi về kinh tế, công nghiệp và khí hậu. Đây là Manhattan trước cơn bão Sandy, và đây là Manhattan sau cơn bão Sandy. Chúng tôi được thành phố New York mời xem xét liệu có thể chống lũ cho Manhattan mà không cần xây đê vì nó sẽ chia tách cuộc sống thành phố khỏi con sông quanh nó. Chúng tôi được truyền cảm hứng bởi công viên High Line. Có lẽ bạn biết High Line - một công viên mới tuyệt vời ở New York. Cơ bản đó là đường ray ngừng hoạt động giờ trở thành một trong những khu vui chơi nổi tiếng nhất thành phố.
So we thought, could we design the necessary flood protection for Manhattan so we don't have to wait until we shut it down before it gets nice? So we sat down with the citizens living along the waterfront of New York, and we worked with them to try to design the necessary flood protection in such a way that it only makes their waterfront more accessible and more enjoyable. Underneath the FDR, we are putting, like, pavilions with pocket walls that can slide out and protect from the water. We are creating little stepped terraces that are going to make the underside more enjoyable, but also protect from flooding. Further north in the East River Park, we are creating rolling hills that protect the park from the noise of the highway, but in turn also become the necessary flood protection that can stop the waves during an incoming storm surge. So in a way, this project that we have called the Dryline, it's essentially the High Line --
Vậy nên chúng tôi nghĩ, liệu chúng tôi có thể thiết kế công trình ngăn lũ cho Manhattan để không cần phải chờ đợi cho tới lúc đóng cửa trước khi nó trở nên đẹp đẽ? Chúng tôi đã ngồi xuống với người dân sống bên bờ sông New York, và làm việc với họ để thiết kế công trình ngăn lũ theo cách chỉ có thể khiến bờ sông của họ dễ tiếp cận và thú vị hơn. Dưới đường FDR, chúng tôi đặt các kiến trúc vòm với phần tường trượt ngăn nước lũ. Chúng tôi đang xây dựng sân có bậc nhỏ khiến cho phần dưới thú vị hơn, nhưng đồng thời ngăn được lũ. Xa hơn về phía Bắc công viên Sông Đông, chúng tôi tạo nên các con đồi thoai thoải bảo vệ công viên khỏi tiếng ồn đường cao tốc, nhưng đổi lại cũng trở thành kiến trúc bảo vệ khỏi cơn lũ bằng cách chặn các con sóng xô khi bão nổi lên. Ở một góc nhìn nhất định, dự án có tên gọi Dryline, cơ bản như High Line -
(Laughter)
(Tiếng cười)
The High Line that's going to keep Manhattan dry.
Phiên bản công viên High Line giữ Manhattan khô ráo.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
It's scheduled to break ground on the first East River portion at the end of this year. But it has essentially been codesigned with the citizens of Lower Manhattan to take all of the necessary infrastructure for resilience and give it positive social and environmental side effects.
Nó được lên lịch động thổ tại phần Sông Đông đầu tiên cuối năm nay. Nhưng nó đã được thiết kế lại cơ bản với người dân của Nam Manhattan để tập hợp tất cả cơ sở vật chất cần thiết cho sự phục hồi và đem đến cho chúng các tác động môi trường và xã hội tích cực bổ sung.
So, New York is not alone in facing this situation. In fact, by 2050, 90 percent of the major cities in the world are going to be dealing with rising seas. In Hamburg, they've created a whole neighborhood where the bottom floors are designed to withstand the inevitable flood. In Sweden, they've designed a city where all of the parks are wet gardens, designed to deal with storm water and waste water. So we thought, could we perhaps --
Không chỉ New York đối mặt với tình trạng này. Thực tế, đến năm 2050, 90% các thành phố lớn trên thế giới sẽ phải đối diện với mực nước biển dâng. Ở Hamburg, họ đã tạo ra một khu vực có tầng đáy được thiết kế có thể chịu được trận lũ không tránh khỏi. Ở Thụy Điển, họ đã thiết kế một thành phố có tất cả công viên đều là vườn ẩm, được thiết kế để đối đầu với bão và nước thải. Nên chúng tôi nghĩ, liệu mình có thể -
Actually, today, three million people are already permanently living on the sea. So we thought, could we actually imagine a floating city designed to incorporate all of the Sustainable Development Goals of the United Nations into a whole new human-made ecosystem. And of course, we have to design it so it can produce its own power, harvesting the thermal mass of the oceans, the force of the tides, of the currents, of the waves, the power of the wind, the heat and the energy of the sun. Also, we are going to collect all of the rain water that drops on this man-made archipelago and deal with it organically and mechanically and store it and clean it. We have to grow all of our food locally, it has to be fish- and plant-based, because you won't have the space or the resources for a dairy diet. And finally, we are going to deal with all the waste locally, with compost, recycling, and turning the waste into energy.
Thật ra, hôm nay, 3 triệu người đã sẵn sàng sống lâu dài trên biển. Chúng tôi nghĩ, liệu mình có thể thực sự tưởng tượng một thành phố nổi được thiết kế để kết hợp mọi Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững của Liên Hiệp Quốc thành một hệ sinh thái hoàn toàn mới do con người tạo ra. Và tất nhiên, chúng tôi phải thiết kế nó để nó có thể tự sản xuất năng lượng, thu thập khối nhiệt từ biển, lực thủy triều, dòng hải lưu và sóng biển, năng lượng từ gió, nhiệt và ánh sáng Mặt Trời. Đồng thời, chúng tôi sẽ tập hợp tất cả lượng mưa rơi trên quần đảo nhân tạo này và xử lý nó không dùng đến hóa chất mà chỉ dùng cơ học, dự trữ và làm sạch nó. Chúng tôi phải trồng thực phẩm tại địa phương, nó phải có nguồn gốc từ cá và thực vật, vì bạn sẽ không có không gian hay nguồn cung cho chế độ ăn đồ từ sữa. Và cuối cùng, chúng tôi sẽ xử lý rác thải ngay tại địa phương, bằng cách tái chế, biến nó thành phân ủ và năng lượng.
So imagine where a traditional urban master plan, you typically draw the street grid where the cars can drive and the building plots where you can put some buildings. This master plan, we sat down with a handful of scientists and basically started with all of the renewable, available natural resources, and then we started channeling the flow of resources through this kind of human-made ecosystem or this kind of urban metabolism. So it's going to be modular, it's going to be buoyant, it's going to be designed to resist a tropical storm. You can prefabricate it at scale, and tow it to dock with others, to form a small community. We're designing these kind of coastal additions, so that even if it's modular and rational, each island can be unique with its own coastal landscape. The architecture has to remain relatively low to keep the center of gravity buoyant. We're going to take all of the agriculture and use it to also create social space so you can actually enjoy the permaculture gardens. We're designing it for the tropics, so all of the roofs are maximized to harvest solar power and to shade from the sun. All the materials are going to be light and renewable, like bamboo and wood, which is also going to create this charming, warm environment. And any architecture is supposed to be able to fit on this platform. Underneath we have all the storage inside the pontoon, almost like a mega version of the student housings that we've already worked with. We have all the storage for the energy that's produced, all of the water storage and remediation. We are sort of dealing with all of the waste and the composting. And we also have some backup farming with aeroponics and hydroponics. So imagine almost like a vertical section through this landscape that goes from the air above, where we have vertical farms; below, we have the aeroponics and the aquaponics. Even further below, we have the ocean farms and where we tie the island to the ground, we're using biorock to create new reefs to regenerate habitat.
Tưởng tượng nơi có quy hoạch tổng thể đô thị truyền thống, bạn vạch ô lưới đường phố nơi có thể lái xe và các khu đất nơi bạn có thể xây những tòa nhà. Quy hoạch tổng thể này, chúng tôi đã ngồi xuống với một nhóm các nhà khoa học và cơ bản đã bắt đầu với tất cả nguồn nguyên liệu sẵn có tự nhiên có thể tái tạo, và rồi chúng tôi bắt đầu phân luồng các nguồn nguyên liệu qua hệ sinh thái nhân tạo hoặc sự chuyển hóa đô thị. Nó sẽ là dạng mô-đun, tạo lực đẩy, và sẽ được thiết kế để chống lại bão nhiệt đới. Bạn có thể đúc sẵn theo tỉ lệ, và kéo nó đến neo vào những cái khác, để tạo nên một cộng đồng nhỏ. Chúng tôi thiết kế những phần bổ trợ ven biển này để dù nó có dạng mô-đun và theo logic, mỗi đảo vẫn có sự độc đáo bởi cảnh quan ven bờ riêng biệt. Kiến trúc phải duy trì ở mức tương đối thấp để giữ trung tâm của trọng lực đẩy. Chúng tôi sẽ lấy tất cả những gì của kiến trúc này và dùng nó tạo nên không gian mở để bạn có thể tận hưởng những khu vườn nông nghiệp bền vững. Chúng tôi thiết kế nó cho vùng nhiệt đới, để mọi mái nhà được tối ưu hóa trong việc thu thập năng lượng Mặt Trời và tạo bóng mát từ đây. Tất cả nguyên liệu sẽ nhẹ và có khả năng tái tạo, như tre và gỗ, chúng cũng sẽ tạo nên môi trường ấm áp và lôi cuốn. Và bất kỳ kiến trúc nào cũng được coi là vừa vặn với nền tảng này. Bên dưới chúng tôi có khu dự trữ trong thuyền phao, gần như phiên bản cực đại của nhà ở học sinh mà chúng tôi đã từng làm việc. Chúng tôi có tất cả khu dự trữ năng lượng được sản xuất, tất cả khu dự trữ và xử lý nước. Chúng tôi sẽ xử lý tất cả rác thải và phân ủ. Chúng tôi cũng có phương pháp trồng trọt hỗ trợ với mô hình thủy canh và khí canh. Tưởng tượng gần như một phần dọc qua phối cảnh này đi từ không khí bên trên, nơi ta có trang trại chiều dọc; ở bên dưới, ta có trang trại khí canh và thủy canh. Dưới sâu hơn, ta có trang trại biển và nơi ta gắn hòn đảo với đất liền, ta dùng đá sinh học để tạo nên dải san hô mới tái tạo môi trường sống.
So think of this small island for 300 people. It can then group together to form a cluster or a neighborhood that then can sort of group together to form an entire city for 10,000 people. And you can imagine if this floating city flourishes, it can sort of grow like a culture in a petri dish.
Hãy nghĩ tới hòn đảo nhỏ có 300 người này. Nó có thể nhóm lại với nhau để tạo thành một cụm hoặc khu vực và rồi lại được nhóm lại thành một thành phố 10.000 người. Và bạn có thể tưởng tượng nếu thành phố nổi này hưng thịnh, nó có thể lớn lên như một vi sinh trên đĩa cấy ở phòng thí nghiệm.
So one of the first places we are looking at placing this, or anchoring this floating city, is in the Pearl River delta. So imagine this kind of canopy of photovoltaics on this archipelago floating in the sea. As you sail towards the island, you will see the maritime residents moving around on alternative forms of aquatic transportation. You come into this kind of community port. You can roam around in the permaculture gardens that are productive landscapes, but also social landscapes. The greenhouses also become orangeries for the cultural life of the city, and below, under the sea, it's teeming with life of farming and science and social spaces. So in a way, you can imagine this community port is where people gather, both by day and by night. And even if the first one is designed for the tropics, we also imagine that the architecture can adapt to any culture, so imagine, like, a Middle Eastern floating city or Southeast Asian floating city or maybe a Scandinavian floating city one day.
Một trong những nơi đầu tiên chúng tôi xem xét đặt nó, hay neo đậu thành phố nổi này, là ở Đồng bằng Sông Ngọc. Tưởng tượng tấm quang điện trên quần đảo nổi trên biển này. Khi bạn đi thuyền tới đảo, bạn sẽ thấy những cư dân biển di chuyển xung quanh trên phương tiện vận tải biển khác. Bạn đi qua một cảng cộng đồng. Bạn có thể rong chơi trong các khu vườn nông nghiệp bền vững với cảnh quan vừa có tính sản xuất, vừa có tính xã hội. Nhà xanh (nhà kính) cũng trở thành nhà cam phục vụ đời sống nông nghiệp thành phố, và dưới biển sâu, cuộc sống nông nghiệp, khoa học và không gian mở thật trù phú. Theo một góc độ nào đó, bạn có thể tưởng tượng cảng cộng đồng này là nơi mọi người sum họp, cả ngày và đêm. Và nếu đó là cái đầu tiên được thiết kế cho vùng nhiệt đới, chúng tôi cũng nghĩ kiến trúc ấy thích nghi với bất kỳ văn hóa nào, hãy tưởng tưởng thành phố nổi Trung Đông hay Nam Á hoặc có thể là Scandinavia một ngày nào đó.
So maybe just to conclude. The human body is 70 percent water. And the surface of our planet is 70 percent water. And it's rising. And even if the whole world woke up tomorrow and became carbon-neutral over night, there are still island nations that are destined to sink in the seas, unless we also develop alternate forms of floating human habitats. And the only constant in the universe is change. Our world is always changing, and right now, our climate is changing. No matter how critical the crisis is, and it is, this is also our collective human superpower. That we have the power to adapt to change and we have the power to give form to our future.
Có thể kết luận như sau. Cơ thể con người có 70% là nước. Và bề mặt hành tinh của chúng ta có 70% là nước. Và con số này đang tăng. Thậm chí nếu toàn thế giới tỉnh dậy vào ngày mai và trở thành các-bon trung tính sau một đêm, vẫn có các quốc đảo được định sẵn chìm trong biển nước, trừ khi ta cũng phát triển các dạng môi trường sống nổi khác cho con người. Điều duy nhất không thay đổi trên thế giới này đó là sự đổi thay. Thế giới của chúng ta luôn thay đổi, và ngay bây giờ, khí hậu cũng thế. Bất kể khủng hoảng có nghiêm trọng ra sao, và nó đúng là như vậy, thì đó cũng là sức mạnh tập thể của loài người chúng ta. Chúng ta có sức mạnh thích nghi với sự thay đổi và sức mạnh kiến tạo hình dáng cho tương lai của mình.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)