Chris Anderson: So, this is an interview with a difference. On the basis that a picture is worth a thousand words, what I did was, I asked Bill and Melinda to dig out from their archive some images that would help explain some of what they've done, and do a few things that way.
CA: Cuộc phỏng vấn này là một sự khác biệt. Như người ta nói: Một bức tranh bằng cả một ngàn lời, tôi đã đề nghị Bill và Melinda đào trong kho lưu trữ của họ để tìm vài bức ảnh giúp ta nhớ lại vài công việc họ đã làm, ta sẽ điểm lại vài việc theo cách như vậy.
So, we're going to start here. Melinda, when and where was this, and who is that handsome man next to you?
Chúng ta sẽ bắt đầu ở đây. Melinda, đây là khi nào và ở đâu vậy? người đàn ông đẹp trai cạnh chị là ai vậy?
Melinda Gates: With those big glasses, huh? This is in Africa, our very first trip, the first time either of us had ever been to Africa, in the fall of 1993. We were already engaged to be married. We married a few months later, and this was the trip where we really went to see the animals and to see the savanna. It was incredible. Bill had never taken that much time off from work. But what really touched us, actually, were the people, and the extreme poverty. We started asking ourselves questions. Does it have to be like this? And at the end of the trip, we went out to Zanzibar, and took some time to walk on the beach, which is something we had done a lot while we were dating. And we'd already been talking about during that time that the wealth that had come from Microsoft would be given back to society, but it was really on that beach walk that we started to talk about, well, what might we do and how might we go about it?
Người đeo cặp kính to tướng này, huh? Đây là ở châu Phi, chuyến đi đầu tiên của chúng tôi, lần đầu tiên hai chúng tôi đến Châu Phi, vào mùa thu năm 1993. Chúng tôi đã đính hôn. Chúng tôi kết hôn vài tháng sau đó, và đây là chuyến chúng tôi thực sự đi xem các loài động vật, xem hoang mạc. Rất tuyệt. Bill chưa bao giờ nghỉ phép dài như thế. Điều khiến chúng tôi cảm động là con người, và sự nghèo khổ đến cùng cực. Chúng tôi tự hỏi. Cuộc sống cứ phải như thế này chăng? Vào cuối chuyến đi, chúng tôi đến Zanzibar, và đi dạo trên bờ biển, đây là việc chúng tôi rất thích khi mới quen nhau. Trong lần đi dạo ấy chúng tôi bàn nhau rằng tiền kiếm được từ Microsoft sẽ được trao lại cho xã hội, và từ cuộc đi dạo đó trên bờ biển, chúng tôi đã bắt đầu bàn cách, xem có thể làm gì và làm như thế nào?
CA: So, given that this vacation led to the creation of the world's biggest private foundation, it's pretty expensive as vacations go. (Laughter)
CA: Như vậy là từ một kỳ nghỉ đưa đến sự ra đời của một quỹ tư nhân lớn nhất thế giới, thế hóa kỳ nghỉ này cũng khá đắt giá đấy. (Cười)
MG: I guess so. We enjoyed it.
MG: Công nhận. Chúng tôi rất vui.
CA: Which of you was the key instigator here, or was it symmetrical? Bill Gates: Well, I think we were excited that there'd be a phase of our life where we'd get to work together and figure out how to give this money back. At this stage, we were talking about the poorest, and could you have a big impact on them? Were there things that weren't being done? There was a lot we didn't know. Our naïveté is pretty incredible, when we look back on it. But we had a certain enthusiasm that that would be the phase, the post-Microsoft phase would be our philanthropy.
CA: Vậy ai trong anh chị là người khởi xướng, hay đây là đồng thanh tương ứng? BG: Tôi nghĩ chúng tôi rất hào hứng vì có một giai đoạn trong đời được làm việc cùng nhau và tìm cách làm thế nào để trao món tiền trở lại xã hội. Vào lúc này, chúng tôi nói về những người ngèo nhất, liệu mình có thể làm gì để giúp họ? Việc gì đây có thể làm mà chúng ta chưa làm được? Có nhiều điều chúng tôi chưa biết. Chúng tôi còn dại khờ khủng khiếp, khi chúng tôi nhìn lại. Nhưng chúng tôi có một niềm ấp ủ, rằng sẽ có một lúc, một thời kỹ hậu-Microsoft là lúc chúng tôi làm công việc từ thiện.
MG: Which Bill always thought was going to come after he was 60, so he hasn't quite hit 60 yet, so some things change along the way.
MG: Bill trước vẫn nghĩ rằng thời đó sẽ đến sau khi anh ấy 60 tuổi, hiện giờ anh ấy vẫn chưa đến 60, nhiều điều đã thay đổi trong quá trình.
CA: So it started there, but it got accelerated. So that was '93, and it was '97, really, before the foundation itself started.
CA: Công việc bắt đầu là vậy, và tiến triển nhanh chóng. Như vậy là vào năm '93, và rồi đến năm '97, thì quỹ đã được lập.
MA: Yeah, in '97, we read an article about diarrheal diseases killing so many kids around the world, and we kept saying to ourselves, "Well that can't be. In the U.S., you just go down to the drug store." And so we started gathering scientists and started learning about population, learning about vaccines, learning about what had worked and what had failed, and that's really when we got going, was in late 1998, 1999.
MA: Vâng, năm "97, chúng tôi đọc một bài báo về bệnh tiêu chảy trên thế giới làm chết rất nhiều trẻ em, và chúng tôi tự nhủ, "Không thể như thế được. Ở Mỹ, người ta chỉ việc ra hiệu thuốc." Thế là chúng tôi bắt đầu tập hợp các nhà khoa học, bắt đầu tiìm hiểu về tình hình dân số, về các loại vắc-xin, loại nào có hiệu lực, loại nào mất hiệu lực, và chúng tôi thực sự bắt tay vào việc, vào cuối năm 1998, 1999.
CA: So, you've got a big pot of money and a world full of so many different issues. How on Earth do you decide what to focus on?
CA: Như vậy là anh chị có một món tiền kha khá và đứng trước nhiều vấn đề khác nhau trên thế giới. Làm thế nào anh chị quyết nên tập trung vào đâu?
BG: Well, we decided that we'd pick two causes, whatever the biggest inequity was globally, and there we looked at children dying, children not having enough nutrition to ever develop, and countries that were really stuck, because with that level of death, and parents would have so many kids that they'd get huge population growth, and that the kids were so sick that they really couldn't be educated and lift themselves up. So that was our global thing, and then in the U.S., both of us have had amazing educations, and we saw that as the way that the U.S. could live up to its promise of equal opportunity is by having a phenomenal education system, and the more we learned, the more we realized we're not really fulfilling that promise. And so we picked those two things, and everything the foundation does is focused there.
BG: Chúng tôi quyết định tập trung vào hai việc, trên thế giới, đâu là nơi thiếu thốn nhất, ở đấy chúng tôi tập trung vào trẻ em đang chết mòn, các cháu không đủ dinh dưỡng để lớn, tại những nước thật tuyệt vọng, với tình hình tử vong như vậy, mà các gia đình thì quá đông con họ có mức tăng dân số kinh khủng, trẻ em thì quá ốm yếu, các cháu không thể học hành được tử tế để cải thiện cuộc sống cho mình. Đấy là công việc chúng tôi làm trên thế giới, còn ở Mỹ, cả hai chúng tôi đều được hưởng sự giáo dục tuyệt vời, và chúng tôi thấy rằng nước Mỹ chỉ có thể thực hiện được lời hứa dành cơ hội cho tất cả mọi người bằng một hệ thống giáo dục tốt, càng tìm hiểu kỹ hơn chúng tôi càng nhận ra rằng chúng ta chưa làm trọn được lời hứa đó. Chúng tôi đã hướng vào hai đích đó, và mọi việc mà Quỹ đã làm là tập trung vào đó.
CA: So, I asked each of you to pick an image that you like that illustrates your work, and Melinda, this is what you picked. What's this about?
CA: Tôi đề nghị anh chị chọn một hình ảnh, để minh họa cho công việc của anh chị, Milinda, đây là hình ảnh chị chọn. Ý nghĩa của nó là gì vậy?
MG: So I, one of the things I love to do when I travel is to go out to the rural areas and talk to the women, whether it's Bangladesh, India, lots of countries in Africa, and I go in as a Western woman without a name. I don't tell them who I am. Pair of khakis. And I kept hearing from women, over and over and over, the more I traveled, "I want to be able to use this shot." I would be there to talk to them about childhood vaccines, and they would bring the conversation around to "But what about the shot I get?" which is an injection they were getting called Depo-Provera, which is a contraceptive. And I would come back and talk to global health experts, and they'd say, "Oh no, contraceptives are stocked in in the developing world." Well, you had to dig deeper into the reports, and this is what the team came to me with, which is, to have the number one thing that women tell you in Africa they want to use stocked out more than 200 days a year explains why women were saying to me, "I walked 10 kilometers without my husband knowing it, and I got to the clinic, and there was nothing there." And so condoms were stocked in in Africa because of all the AIDS work that the U.S. and others supported. But women will tell you over and over again, "I can't negotiate a condom with my husband. I'm either suggesting he has AIDS or I have AIDS, and I need that tool because then I can space the births of my children, and I can feed them and have a chance of educating them."
MG: Một trong những điều tôi thích trong các chuyến đi là ra vùng nông thôn trò chuyện với chị em phụ nữ, dù ở Bangladesh, Ấn độ hay nhiều nước châu Phi, tôi đến với họ như một phụ nữ phương Tây vô danh. Mặc bộ đồ ka-ki, không nói mình là ại. Và tôi nghe chuyện từ những phụ nữ ấy, lần này lượt khác, càng đi càng nghe được nhiều, "Tôi muốn được tiêm." Tôi đến với họ để nói về vắc-xin cho trẻ em, và họ lái câu chuyện sang hướng khác "Thế còn mũi tiêm cho tôi thì sao?" Đấy là mũi tiêm dành cho phụ nữ, gọi là Depo-Provera, một loại thuốc tránh thai. Khi về nhà tôi nói chuyện với các chuyên gia y tế thế giới, và họ nói, "Ồ không, thuốc tránh thai hiện đang có sẵn tại các nước đang phát triển." Thế đấy, ta phải đào sâu hơn các báo cáo. và đây là điều chúng tôi nhận ra, đó là xác định được mong muốn hàng đầu của người phụ nữ châu Phi đó là sử dụng phương tiện tránh thai hơn 200 ngày trong một năm điều này giải thích tại sao các chị nói với tôi, "Tôi dấu chồng tôi, đi bộ 10 cây số, để đến phòng khám, nhưng chẳng có gì ở đấy cả." Như vậy là bao cao su được cung cấp cho châu Phi bởi công tác chống bệnh AIDS do Mỹ và các nước giúp đỡ. Nhưng chị em phụ nữ nhiều lần nói với tôi rằng, "Tôi không thể phó thác chuyện đeo bao cao su cho chồng tôi. Hoặc chồng tôi hoặc tôi có thể bị AIDS, và tôi còn cần cái ấy vì tôi muốn đẻ thưa để tôi còn có thể nuôi các con tôi và dạy dỗ chúng nên người."
CA: Melinda, you're Roman Catholic, and you've often been embroiled in controversy over this issue, and on the abortion question, on both sides, really. How do you navigate that?
CA: Melinda, chị là tín đồ Roman Catholic, và chị lâm vào thế khó xử trong sự bàn cãi về vấn đề này, và về vấn đề nạo thai, của cả hai phía, quả thật. Vậy chị đã thoát ra bằng cách nào?
MG: Yeah, so I think that's a really important point, which is, we had backed away from contraceptives as a global community. We knew that 210 million women were saying they wanted access to contraceptives, even the contraceptives we have here in the United States, and we weren't providing them because of the political controversy in our country, and to me that was just a crime, and I kept looking around trying to find the person that would get this back on the global stage, and I finally realized I just had to do it. And even though I'm Catholic, I believe in contraceptives just like most of the Catholic women in the United States who report using contraceptives, and I shouldn't let that controversy be the thing that holds us back. We used to have consensus in the United States around contraceptives, and so we got back to that global consensus, and actually raised 2.6 billion dollars around exactly this issue for women. (Applause)
MG: Vâng, tôi nghĩ đây là điểm rất quan trọng, đó là , với tư cách là một cộng đồng trên thế giới chúng tôi đã quay lưng lại với các biện pháp tránh thai. Chúng ta biết có 210 triệu phụ nữ có nguyện vọng sử dụng các biện pháp tránh thai thậm chí các biện pháp chúng ta đang có ở Mỹ, nhưng chúng ta không cung cấp phương tiện cho họ vì những sự tranh cãi chính trị ở trong nước Mỹ, và tôi cho như thế là tội ác, và tôi cứ tìm mãi xem có ai đó sẽ đưa vấn đề này lên diễn đàn thế giới, cuối cùng tôi nhận ra rằng chính tôi phải làm điều đó. Ngay cả khi tôi là một người theo đạo Catholic, tôi vẫn tin vào biện pháp tránh thai cũng như hầu hết phụ nữ Catholic ở Mỹ vẫn đang dùng các biện pháp tránh thai, và tôi không nên để cho sự tranh cãi ấy thành sự níu kéo cản trở chúng ta. Chúng ta từng có sự nhất trí ở Mỹ về các biện pháp tránh thai, và do đó chúng tôi trở lại với sự đồng thuận toàn cầu ấy, và quyên được 2,6 tỉ đô-la để giải quyết chính vấn đề này cho chị em phụ nữ. (Vỗ tay)
CA: Bill, this is your graph. What's this about?
CA: Bill, đây là biểu đồ của anh. Anh định mô tả điều gì vây?
BG: Well, my graph has numbers on it. (Laughter) I really like this graph. This is the number of children who die before the age of five every year. And what you find is really a phenomenal success story which is not widely known, that we are making incredible progress. We go from 20 million not long after I was born to now we're down to about six million. So this is a story largely of vaccines. Smallpox was killing a couple million kids a year. That was eradicated, so that got down to zero. Measles was killing a couple million a year. That's down to a few hundred thousand. Anyway, this is a chart where you want to get that number to continue, and it's going to be possible, using the science of new vaccines, getting the vaccines out to kids. We can actually accelerate the progress. The last decade, that number has dropped faster than ever in history, and so I just love the fact that you can say, okay, if we can invent new vaccines, we can get them out there, use the very latest understanding of these things, and get the delivery right, that we can perform a miracle.
BG: Biểu đồ của tôi có con số trên đó. (Cười) Tôi rất thích biểu đồ này. Đây là số trẻ em tử vong mỗi năm trước tuổi lên năm. Cái ta thấy ở đây là một thành công lịch sử nhưng chưa được nhiều người biết đến, nhưngchúng ta làm nên một tiến bộ kỳ diệu. Chẳng bao lâu sau khi tôi ra đời con số trẻ em tử vong là 20 triệu ngày nay con số đó chỉ còn 6 triệu. Đây là một câu chuyện chủ yếu liên quan đến vắc-xin. Bệnh đậu mùa mỗi năm cướp đi vài triệu trẻ em. Chúng ta đã xóa được nó, số tử vong nay bằng không. Bệnh sưởi mỗi năm cũng cướp đi vài triệu trẻ em. Giờ đây giảm xuống chỉ còn vài trăm ngàn. Và đây là một biểu đồ trên đó chúng ta muốn thể hiện các con số tiếp tục, và đó là điều có thể, nếu khoa học đưa ra các vắc-xin mới, và vắc-xin đến được với trẻ. Có thể giảm số tử vong hơn nữa. Thập kỷ vừa qua con số đó đã giảm mạnh hơn bao giờ hết trong lịch sử, đây là một thực tế rất đáng mừng nếu chúng ta tìm ra loại vắc-xin mới, và có thể đưa ra sử dụng, dùng những hiểu biết mới nhất trong lĩnh vực này, để tiêm đúng, hầu tạo ra một phép lạ.
CA: I mean, you do the math on this, and it works out, I think, literally to thousands of kids' lives saved every day compared to the prior year. It's not reported. An airliner with 200-plus deaths is a far, far bigger story than that. Does that drive you crazy?
CA: Tôi hiểu là theo tính toán của anh công việc đã tạo biến chuyển trực tiếp mỗi ngày hàng nghìn trẻ em đã được cứu so với năm trước. Vấn đề này không được đưa tin. Một tai nạn máy bay làm hơn 200 người chết là chuyện gây chấn động mạnh hơn chuyện này. Anh có thấy vô lý ở chỗ đó không?
BG: Yeah, because it's a silent thing going on. It's a kid, one kid at a time. Ninety-eight percent of this has nothing to do with natural disasters, and yet, people's charity, when they see a natural disaster, are wonderful. It's incredible how people think, okay, that could be me, and the money flows. These causes have been a bit invisible. Now that the Millennium Development Goals and various things are getting out there, we are seeing some increased generosity, so the goal is to get this well below a million, which should be possible in our lifetime.
BG: Vâng, vì đây là việc diễn ra thầm lặng. Đây là trẻ em, mỗi ca là một cháu. Chín mươi tám phần trăm các trường hợp này không liên quan gì đến thảm họa thiên nhiên, tuy nhiên, lòng từ thiện, khi thấy thảm họa thiên nhiên, thì cảm động. Cách người ta nghĩ rất là đặc biệt, okay, đấy cũng có thể là tôi, thế là tiền chảy vào. Còn những công việc này không dễ nhìn như vậy. Hiện nay dự án Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và các dự án khác đang được triển khai, ngày càng có nhiều lòng hảo tâm, mục tiêu là đưa con số này xuống dưới một triệu, điều này có thể đạt được ngay khi chúng ta còn sống.
CA: Maybe it needed someone who is turned on by numbers and graphs rather than just the big, sad face to get engaged. I mean, you've used it in your letter this year, you used basically this argument to say that aid, contrary to the current meme that aid is kind of worthless and broken, that actually it has been effective.
CA: Có thể cần có những người cảm nhận được qua những con số và biểu đồ chứ không chỉ qua những khuôn mặt buồn để động tâm giúp đỡ. Ý tôi, theo cách anh nói trong thư năm nay, anh lập luận rằng sự trợ giúp trái ngược với những chê bai trong dư luận cho rằng sự trợ giúp là vô ích và chắp vá, thực ra nó rất có hiệu quả.
BG: Yeah, well people can take, there is some aid that was well-meaning and didn't go well. There's some venture capital investments that were well-meaning and didn't go well. You shouldn't just say, okay, because of that, because we don't have a perfect record, this is a bad endeavor. You should look at, what was your goal? How are you trying to uplift nutrition and survival and literacy so these countries can take care of themselves, and say wow, this is going well, and be smarter. We can spend aid smarter. It is not all a panacea. We can do better than venture capital, I think, including big hits like this.
BG: Vâng, người ta có thể chỉ nhìn vào những sự trợ giúp có tiếng nghe rất kêu nhưng thực thi thì không tốt. Có những dự án đầu tư vốn có ý định rất hay nhưng không thành. Chúng ta không thể nói rằng okay, vì những cái đó vì chúng ta chưa làm được một cách hoàn toàn, nên nỗ lực này là uổng công. Chúng ta phải nhìn xem, đâu là mục đích? Làm thế nào nâng chế độ dinh dưỡng nâng tỉ lệ trẻ em sống sót và số người biết chữ để cho các nước đó có thể đứng trên đôi chân của mình, và thấy tuyệt, công việc thật tốt đẹp, họ trở nên giỏi dang hơn. Chúng ta có thể dùng tiền trợ giúp thông minh hơn. Nó khôngphải là thuốc chữa bách bệnh. Ta có thể làm cái tốt hơn là cho vay vốn đầu tư, trong đó có những dự án lớn như thế này.
CA: Traditional wisdom is that it's pretty hard for married couples to work together. How have you guys managed it? MG: Yeah, I've had a lot of women say to me, "I really don't think I could work with my husband. That just wouldn't work out." You know, we enjoy it, and we don't -- this foundation has been a coming to for both of us in its continuous learning journey, and we don't travel together as much for the foundation, actually, as we used to when Bill was working at Microsoft. We have more trips where we're traveling separately, but I always know when I come home, Bill's going to be interested in what I learned, whether it's about women or girls or something new about the vaccine delivery chain, or this person that is a great leader. He's going to listen and be really interested. And he knows when he comes home, even if it's to talk about the speech he did or the data or what he's learned, I'm really interested, and I think we have a really collaborative relationship. But we don't every minute together, that's for sure. (Laughter)
CA: Người ta vốn cho rằng hai vợ chồng thì khó mà làm việc với nhau. Anh chị cùng làm việc với nhau như thế nào? MG: Vâng có nhiều phụ nữ nói với tôi, "Tôi thực không tin có thể cùng làm việc với chồng tôi. Chuyện ấy không xảy ra." Anh biết đấy, chúng tôi thích làm việc cùng nhau -- quỹ này là một dịp cho cả hai chúng tôi vừa làm vừa học dọc theo hành trình, chúng tôi không đi cùng với nhau nhiều trong các hoạt động của quỹ như trước đây khi Bill còn làm việc tại Microsoft. Chúng tôi thường đi công tác riêng, nhưng khi tôi trở về, Bill bao giờ cũng muốn biết những điều tôi học được, hoặc về những phụ nữ, những cô gái tôi đã gặp hoặc những tin mới về tuyến cung cấp vắc-xin, hoặc về một người lãnh đạo mà chúng tôi khâm phục. Anh ấy rất quan tâm lắng nghe. Anh ấy biết khi trở về nhà, tôi luôn quan tâm muốn biết về bài thuyết trình anh ấy vừa đọc hay những dữ liệu mới hoặc điều anh ấy mới ngộ ra, chúng tôi có mối quan hệ hợp tác thực sự. Nhưng không phải phút nào cũng bên nhau, cái đó đã hẳn. (Cười)
CA: But now you are, and we're very happy that you are. Melinda, early on, you were basically largely running the show. Six years ago, I guess, Bill came on full time, so moved from Microsoft and became full time. That must have been hard, adjusting to that. No?
CA: Nhưng bây giờ chúng tôi vui vì thấy anh chị bên nhau. Melinda, trước đây chủ yếu là chị làm công việc này. Sáu năm về trước, theo tôi nhớ, Bill thôi công việc ở Microsoft và dành toàn bộ thời gian cho công việc này. Hẳn việc điều chỉnh đó cũng không phải dễ. Phải không ạ?
MG: Yeah. I think actually, for the foundation employees, there was way more angst for them than there was for me about Bill coming. I was actually really excited. I mean, Bill made this decision even obviously before it got announced in 2006, and it was really his decision, but again, it was a beach vacation where we were walking on the beach and he was starting to think of this idea. And for me, the excitement of Bill putting his brain and his heart against these huge global problems, these inequities, to me that was exciting. Yes, the foundation employees had angst about that. (Applause)
MG: Vâng, tôi nghĩ thực ra, đối với các nhân viên của Quỹ, có nhiều điều khiến họ phải điều chỉnh, hơn là đối với tôi khi Bill về đây. Thực tế tôi rất vui. Ý tôi là khi Bill có quyết định này, ngay trước khi công bố vào năm 2006, đây chính là quyết định của anh ấy, tuy nhiên, sâu xa vẫn từ kỳ nghỉ bên bờ biển khi chúng tôi đi dạo cùng nhau anh ấy bắt đầu có ý tưởng này. Với tôi, thì tôi rất vui vì Bill quyết định đặt hết tâm trí của anh ấy vào những vấn đề hóc búa toàn cầu này, những sự bất công này. Vâng, các nhân viên của Quỹ có sự lo lắng về điều đó. (Vỗ tay)
CA: That's cool.
CA: Điều đó hiểu được.
MG: But that went away within three months, once he was there.
MG: Nhưng sự lo lắng đó tan biến trong vòng ba tháng, một khi Bill đã ở đó.
BG: Including some of the employees.
BG: Tan biến cùng một số nhân viên.
MG: That's what I said, the employees, it went away for them three months after you were there.
MG: Tôi đã nói, đối với các nhân viên, sự ngại ngần tan biến sau ba tháng anh có mặt tại đấy.
BG: No, I'm kidding. MG: Oh, you mean, the employees didn't go away.
BG: Không, tôi đùa thôi. MG: Oh, ý anh là nhân viên không ai ra đi.
BG: A few of them did, but — (Laughter)
BG: Có một số ra đi, nhưng - (Cười)
CA: So what do you guys argue about? Sunday, 11 o'clock, you're away from work, what comes up? What's the argument?
CA: Thế anh chị tranh luận với nhau về vấn đề gì? Chủ nhật, lúc 11giờ, ngày nghỉ của anh chj, điều gì đã đến, Sự bàn luận đó ra sao?
BG: Because we built this thing together from the beginning, it's this great partnership. I had that with Paul Allen in the early days of Microsoft. I had it with Steve Ballmer as Microsoft got bigger, and now Melinda, and in even stronger, equal ways, is the partner, so we talk a lot about which things should we give more to, which groups are working well? She's got a lot of insight. She'll sit down with the employees a lot. We'll take the different trips she described. So there's a lot of collaboration. I can't think of anything where one of us had a super strong opinion about one thing or another?
BG: Chúng tôi đã cùng nhau xây dựng công việc này từ lúc ban đầu, đây là sự chung tay dày công vun đắp. Tôi đã có điều đó với Paul Allen trong những ngày đầu của Microsoft. Tôi có điều đó với Steve Ballmer khi Microsoft mở rộng quy mô, và giờ đây với Malinda, là một đối tác thậm chí còn mạnh hơn và bình đẳng hơn, chúng tôi đã trao đổi rất nhiều nên tập trung nhiều hơn vào đâu, nhóm nào đang làm việc tốt? Cô ấy hiểu được nhiều vấn đề. Cô ấy tiếp xúc rất nhiều với các nhân viên. Chúng tôi có các chuyến đi khác nhau như đã nói. Có rất nhiều sự phối hợp. Không có một trường hợp nào giữa chúng tôi ý kiến người này lại át ý kiến người kia.
CA: How about you, Melinda, though? Can you? (Laughter) You never know.
CA: Còn chị, Melinda, Chị có át anh ấy không? (Cười) Không biết được đâu nhé.
MG: Well, here's the thing. We come at things from different angles, and I actually think that's really good. So Bill can look at the big data and say, "I want to act based on these global statistics." For me, I come at it from intuition. I meet with lots of people on the ground and Bill's taught me to take that and read up to the global data and see if they match, and I think what I've taught him is to take that data and meet with people on the ground to understand, can you actually deliver that vaccine? Can you get a woman to accept those polio drops in her child's mouth? Because the delivery piece is every bit as important as the science. So I think it's been more a coming to over time towards each other's point of view, and quite frankly, the work is better because of it.
MG: Nó là thế này. Chúng tôi tiếp cận vấn đề từ những góc độ khác nhau, thực tế tôi thấy điều ấy rất hay. Anh Bill có thể nhìn vào các dữ liệu tổng quát và nói, "Tôi muốn làm việc, căn cứ vào thống kê toàn cầu thế này." Còn tôi, tôi đi từ trực giác. Tôi tiếp xúc với rất nhiều người địa phương và Bill dạy tôi cách lấy điều thu lượm được đối chiếu với dữ liệu toàn cầu xem nó có hợp nhau không, và điều tôi dạy anh ấy là đem dữ liệu ấy xuống gặp người dân địa phương để tìm hiểu, thực tế liệu có thể tiêm loại vắc-xin đó không? Liệu các bà mẹ có chấp nhận cho con uống vắc-xin bại liệt? nhỏ qua miệng? Vì việc đưa được đến nơi người dùng cũng quan trọng không kém gì khoa học. Do đó tôi nghĩ ở đây có sự hỗ trợ và bổ sung giữa ý kiến của người này với ý kiến của người kia, chân thành mà nói, công việc nhờ đó tiến triển tốt hơn.
CA: So, in vaccines and polio and so forth, you've had some amazing successes. What about failure, though? Can you talk about a failure and maybe what you've learned from it?
CA: Vậy là việc tiêm vắc-xin, phòng bại liệt và v.v anh chị đã có những thành công xuất sắc. Còn những thất bại thì sao? Anh chị có thể kể ra một thất bại đã cho anh chị một bài học có ý nghĩa?
BG: Yeah. Fortunately, we can afford a few failures, because we've certainly had them. We do a lot of drug work or vaccine work that you know you're going to have different failures. Like, we put out, one that got a lot of publicity was asking for a better condom. Well, we got hundreds of ideas. Maybe a few of those will work out. We were very naïve, certainly I was, about a drug for a disease in India, visceral leishmaniasis, that I thought, once I got this drug, we can just go wipe out the disease. Well, turns out it took an injection every day for 10 days. It took three more years to get it than we expected, and then there was no way it was going to get out there. Fortunately, we found out that if you go kill the sand flies, you probably can have success there, but we spent five years, you could say wasted five years, and about 60 million, on a path that turned out to have very modest benefit when we got there.
BG: May thay, chúng tôi có thể trả giá cho một số thất bại, vì chắc chắn chúng tôi có thất bại. Chúng tôi làm nhiều dự án về thuốc và tiêm vắc-xin mà anh biết là có nhiều thất bại. Có một án chúng tôi phải dừng, dù rất có tiếng vang đó là tìm loại bao cao su tốt hơn. Thế đấy, có hàng trăm ý tưởng. Trong đó có thể chỉ một vài là khả thi. Chúng tôi còn khờ, tôi rất khờ về một loại thuốc chữa bệnh ở Ấn độ, tên là visceral leishmaniasis, tôi cứ nghĩ rằng một khi tôi có được thuốc này, thì chúng ta sẽ quét sạch được bệnh tật. Nhưng thực tế thuốc này phải tiêm mỗi ngày một mũi, liên tục mười ngày. Lại phải mất thêm ba năm so với dự kiến mới có, rốt cuộc là không có cách gì để đưa thuốc này sang đấy. Rất may chúng tôi phát hiện ra nếu tiêu diệt loài ruồi cát, thì có thể ngừa bệnh này thành công, nhưng chúng tôi đã dành 6 năm, có thể nói phí mất 6 năm, và khoảng 60 triệu, chỉ để đi đến một kết quả rất khiêm tốn.
CA: You're spending, like, a billion dollars a year in education, I think, something like that. Is anything, the story of what's gone right there is quite a long and complex one. Are there any failures that you can talk about?
CA: Anh chị đã chi khoảng một tỉ đô-la mỗi năm cho giáo dục hay những việc tương tự. Và câu chuyện diễn ra trong lĩnh vực này thì lại dài và phức tạp. Vậy anh chị có thể kể về một thất bại nào chăng?
MG: Well, I would say a huge lesson for us out of the early work is we thought that these small schools were the answer, and small schools definitely help. They bring down the dropout rate. They have less violence and crime in those schools. But the thing that we learned from that work, and what turned out to be the fundamental key, is a great teacher in front of the classroom. If you don't have an effective teacher in the front of the classroom, I don't care how big or small the building is, you're not going to change the trajectory of whether that student will be ready for college. (Applause)
MG: Có thể nói có một bài học lớn là lúc mới bắt đầu làm chúng tôi nghĩ rằng nên mở những ngôi trường nhỏ, trường nhỏ nhất định là tốt. Ở đây tỉ lệ bỏ học thấp. Ở đây ít bạo lực và tội phạm. Nhưng điều tôi học được về sau, điều trở thành chìa khóa thành công, đó là phải có người thầy giỏi đứng lớp. Nếu anh không có một giáo viên có hiệu quả đứng trước lớp, thì dù trường to hay là trường nhỏ, anh chẳng bao giờ thay đổi được quỹ đạo để chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng vào đại học. (Vỗ tay)
CA: So Melinda, this is you and your eldest daughter, Jenn. And just taken about three weeks ago, I think, three or four weeks ago. Where was this?
CA: Chị Melinda, đây là chị và con gái đầu của chị, Jenn. Hình như ảnh này mới chụp cách đây ba tuần, ba hay bốn tuần trước. Đây là đâu vậy?
MG: So we went to Tanzania. Jenn's been to Tanzania. All our kids have been to Africa quite a bit, actually. And we did something very different, which is, we decided to go spend two nights and three days with a family. Anna and Sanare are the parents. They invited us to come and stay in their boma. Actually, the goats had been there, I think, living in that particular little hut on their little compound before we got there. And we stayed with their family, and we really, really learned what life is like in rural Tanzania. And the difference between just going and visiting for half a day or three quarters of a day versus staying overnight was profound, and so let me just give you one explanation of that. They had six children, and as I talked to Anna in the kitchen, we cooked for about five hours in the cooking hut that day, and as I talked to her, she had absolutely planned and spaced with her husband the births of their children. It was a very loving relationship. This was a Maasai warrior and his wife, but they had decided to get married, they clearly had respect and love in the relationship. Their children, their six children, the two in the middle were twins, 13, a boy, and a girl named Grace. And when we'd go out to chop wood and do all the things that Grace and her mother would do, Grace was not a child, she was an adolescent, but she wasn't an adult. She was very, very shy. So she kept wanting to talk to me and Jenn. We kept trying to engage her, but she was shy. And at night, though, when all the lights went out in rural Tanzania, and there was no moon that night, the first night, and no stars, and Jenn came out of our hut with her REI little headlamp on, Grace went immediately, and got the translator, came straight up to my Jenn and said, "When you go home, can I have your headlamp so I can study at night?"
MG: Chúng tôi ở Tanzania. Jenn đã từng đến Tanzania Các con chúng tôi đến châu Phi khá nhiều lần. Chúng tôi làm một điều cũng hơi khác, đó là quyết định ở cùng với một gia đình trong hai đêm và ba ngày. Anna và Sanare là bố mẹ của gia đình này. Họ mời chúng tôi đến và nghỉ lại nhà họ. Họ nuôi cả dê ở trong nhà, dê cùng sống trong túp lều nhỏ trước khi chúng tôi đến thăm. Và chúng tôi đã ở lại với gia đình họ và thực sự, thực tế biết được cuộc sống là như thế nào ở vùng nông thôn Tanzania. Điều đó khác hoàn toàn với cuộc viếng thăm nửa ngày hoặc ba phần tư ngày thật khác xa so với ở lại qua đêm, để tôi giải thích thêm một chút. Họ có sáu con, tôi trò chuyện với Anna trong bếp vừa trò chuyện vừa nấu ăn trong năm giờ trong căn bếp nhỏ hôm đó, trong khi trò chuyện, chị cho tôi biết đã thỏa thuận với chồng về kế hoạch hóa gia đình để có thể đẻ thưa. Vợ chồng họ rất yêu nhau. Đây là chiến binh Maasai và vợ, họ đã quyết định lấy nhau, họ có lòng kính trọng và tình yêy trong quan hệ. Họ có sáu người con, hai cháu ở giữa sinh đôi, 13 tuổi, một trai một gái, tên là Grace. Chúng tôi ra ngoài lấy củi và làm các việc thường ngày Grace và mẹ vẫn làm Grace không còn là một đứa trẻ cô đã là một thanh niên nhưng cô vẫn chưa là người lớn. Cô bé rất, rất là e thẹn. Cô rất muốn nói chuyện với tôi và Jenn. Chúng tôi tìm cách bắt chuyện với cô, nhưng cô rất hay thẹn. Rồi đêm đến, khi mọi ngọn đèn đều tắt trong vùng nông thôn Tanzania, đêm ấy trời không có trăng, đêm đầu tháng, trời không có sao, Jenn đi ra ngoài túp lều mang theo chiếc đèn pha REI bật đeo trên trán, Grace lập tức đi theo, và gọi người phiên dịch, em đến bên Jenn và nói, "Khi cậu về nhà, cậu có thể cho tớ chiếc đèn để tớ học vào ban đêm có được không?"
CA: Oh, wow.
CA: Oh, wow.
MG: And her dad had told me how afraid he was that unlike the son, who had passed his secondary exams, because of her chores, she'd not done so well and wasn't in the government school yet. He said, "I don't know how I'm going to pay for her education. I can't pay for private school, and she may end up on this farm like my wife." So they know the difference that an education can make in a huge, profound way.
MG: Và bố cháu bảo với tôi anh ấy rất là lo lắng cho con gái khác với đứa con trai đã thi đỗ cấp hai, con gái anh bận nhiều việc nhà, nên học không được tốt và vẫn chưa được nhận vào trường công lập. Anh bảo: "Tôi không biết sẽ trả tiền học cho con gái thế nào. Tôi không thể trả học phí cho trường tư, cháu có thể chôn đời mình ở nông trại này như vợ tôi." Họ thấy sự khác biệt mà giáo dục có thể mang lại một cách lớn lao và sâu sắc.
CA: I mean, this is another pic of your other two kids, Rory and Phoebe, along with Paul Farmer. Bringing up three children when you're the world's richest family seems like a social experiment without much prior art. How have you managed it? What's been your approach?
CA: Đây là một bức ảnh khác của hai đữa con khác của anh chị Rory và Phoebe, bên cạnh Paul Farmer. Nuôi dạy ba đứa con lại là gia đình giàu có nhất trên thế giới đó có vẻ là một thực nghiệm về mặt xã hội hiếm có tiền lệ. Vậy anh chị xoay xở như thế nào? Đâu là cách tiếp cận của anh chị?
BG: Well, I'd say overall the kids get a great education, but you've got to make sure they have a sense of their own ability and what they're going to go and do, and our philosophy has been to be very clear with them -- most of the money's going to the foundation -- and help them find something they're excited about. We want to strike a balance where they have the freedom to do anything but not a lot of money showered on them so they could go out and do nothing. And so far, they're fairly diligent, excited to pick their own direction.
BG: Vâng, có thể nói nhìn chung các con tôi được hưởng một nền giáo dục rất tốt, có điều phải làm cho các cháu nhận thức được về năng lực của mình các cháu sẽ đi đâu và làm việc gì, và triết lý của chúng tôi được làm rất rõ cho các con -- đó là hầu hết số tiền sẽ đưa vào Quỹ -- và chúng tôi giúp các con tìm điều khiến chúng say mê. Chúng tôi muốn tạo cho con sự cân bằng giữa sự tự do làm điều mình thích và không có quá nhiều tiền để nhởn nhơ vô tích sự. Đến giờ, các con tôi đều khá siêng năng, thích thú chọn lấy hướng đi cho riêng mình.
CA: You've obviously guarded their privacy carefully for obvious reasons. I'm curious why you've given me permission to show this picture now here at TED. MG: Well, it's interesting. As they get older, they so know that our family belief is about responsibility, that we are in an unbelievable situation just to live in the United States and have a great education, and we have a responsibility to give back to the world. And so as they get older and we are teaching them -- they have been to so many countries around the world — they're saying, we do want people to know that we believe in what you're doing, Mom and Dad, and it is okay to show us more. So we have their permission to show this picture, and I think Paul Farmer is probably going to put it eventually in some of his work. But they really care deeply about the mission of the foundation, too.
CA: Anh chị giữ dìn cẩn thận sự riêng tư chính đáng của các con. Tôi tò mò tại sao anh chị cho phép tôi chiếu bức hình này tại TED. BG: Vâng, đó một điều hay. Khi các con tôi lớn dần lên, chúng đều biết rằng trách nhiệm là niềm tin của gia đình chúng tôi, rằng chỉ được sống ở Mỹ thôi chúng tôi đã hưởng một diễm phúc không thể tin được và một nền giáo dục tuyệt vời, và chúng tôi có trách nhiệm trả ơn cho thế giới. Bởi vậy khi các con tôi lớn lên và chúng tôi dạy dỗ chúng -- chúng đã tới rất nhiều nước trên thế giới -- các con tôi nói rằng, chúng con muốn mọi người biết rằng chúng con tin vào những điều bố và mẹ đang làm, chúng con muốn tiếp tục thấy điều đó. Thế nên chúng tôi được con cho phép khoe bức hình này, và Paul Farmer có thể sẽ đưa hình này vào một số công trình của anh ấy. Các con tôi cũng quan tâm sâu sắc đến sứ mệnh của Quỹ.
CA: You've easily got enough money despite your vast contributions to the foundation to make them all billionaires. Is that your plan for them?
CA: Anh chị dễ dàng có đủ tiền dù có đóng góp to lớn cho Quỹ để làm cho các con thành tỷ phú Anh chị có kế hoạch như thế không?
BG: Nope. No. They won't have anything like that. They need to have a sense that their own work is meaningful and important. We read an article long, actually, before we got married, where Warren Buffett talked about that, and we're quite convinced that it wasn't a favor either to society or to the kids.
BG: Không. Không. Không có chuyện đó cho các con tôi. Chúng cần có nhận biết rằng công việc của chúng là có ý nghĩa và quan trọng. Trước khi lấy nhau, chúng tôi có đọc một bài báo, trong đó Warren Buffett có nói về điều đó, và chúng tôi hoàn toàn tin rằng đấy không là một điều hay cả cho xã hội và cho lũ trẻ.
CA: Well, speaking of Warren Buffett, something really amazing happened in 2006, when somehow your only real rival for richest person in America suddenly turned around and agreed to give 80 percent of his fortune to your foundation. How on Earth did that happen? I guess there's a long version and a short version of that. We've got time for the short version.
CA: Về Warren Buffett , có những điều kỳ diệu đã xảy ra năm 2006, khi một đối thủ thực sự và duy nhất của anh chị xét về góc độ là người giàu nhất nước Mỹ đột nhiên quay lại đồng ý hiến 80% tài sản của ông cho Quỹ của anh chị. Làm thế nào lại có chuyện đó? Có một câu chuyện dài và một câu chuyện ngắn. Ta có đủ thời gian cho câu chuyện ngắn.
BG: All right. Well, Warren was a close friend, and he was going to have his wife Suzie give it all away. Tragically, she passed away before he did, and he's big on delegation, and — (Laughter) — he said —
BG: Được thôi. Warren là một người bạn thân, vợ ông ấy bà Suzie bà sắp sửa cho đi tất cả tài sản. Bi kịch thay, bà lại chết trước ông, và thế là ông ấy có tiếng nói quyết định, và -- (Cười) -- ông ấy tuyên bố --
CA: Tweet that.
CA: Rằng...
BG: If he's got somebody who is doing something well, and is willing to do it at no charge, maybe that's okay. But we were stunned. MG: Totally stunned. BG: We had never expected it, and it has been unbelievable. It's allowed us to increase our ambition in what the foundation can do quite dramatically. Half the resources we have come from Warren's mind-blowing generosity.
BG: Nếu ông ấy biết một ai đó đang làm tốt công việc này, và sẵn lòng làm miễn phí, thì có thể ông sẽ vui lòng. Nhưng chúng tôi rất sửng sốt. MG: Hoàn toàn sửng sốt. BG: Không hề trông đợi điều đó, và đấy là điều không thể tin được. Nó cho phép chúng tôi có tham vọng làm được nhiều hơn trong hoạt động năng động của Quỹ. Một nửa nguồn lực chúng tôi có đến từ sự hào hiệp phi thường của Warren.
CA: And I think you've pledged that by the time you're done, more than, or 95 percent of your wealth, will be given to the foundation.
CA: Tôi biết là anh đã cam kết rằng đến cuối đời, hơn 95% tài sản của anh chị, sẽ được trao cho Quỹ.
BG: Yes.
BG: Vâng.
CA: And since this relationship, it's amazing— (Applause) And recently, you and Warren have been going around trying to persuade other billionaires and successful people to pledge to give, what, more than half of their assets for philanthropy. How is that going? BG: Well, we've got about 120 people who have now taken this giving pledge. The thing that's great is that we get together yearly and talk about, okay, do you hire staff, what do you give to them? We're not trying to homogenize it. I mean, the beauty of philanthropy is this mind-blowing diversity. People give to some things. We look and go, "Wow." But that's great. That's the role of philanthropy is to pick different approaches, including even in one space, like education. We need more experimentation. But it's been wonderful, meeting those people, sharing their journey to philanthropy, how they involve their kids, where they're doing it differently, and it's been way more successful than we expected. Now it looks like it'll just keep growing in size in the years ahead.
CA: Bắt đầu từ lúc anh chị đến với nhau, thật là kỳ diệu - (Vỗ tay) Vừa qua, anh và Warren đã có những cuộc tiếp xúc và thuyết phục những nhà tỷ phú và doanh nhân thành đạt cam kết sẽ hiến tặng, hơn nửa tài sản của họ cho hoạt động từ thiện. Tình hình việcđó ra sao? BG: Hiện có 120 người có sự cam kết hiến tặng này. Cái hay là chúng tôi gặp nhau hàng năm để bàn bạc, các anh thuê nhân viên, vậy việc cho họ thế nào? Chúng tôi không cố làm mọi việc giống nhau. Tôi muốn nói nét đẹp của hoạt động từ thiện là ở trong sự đa dạng này. Người ta hiến tặng cho một sự nghiệp nào đó. Chúng ta nhìn và cảm kích, "Wow." Cái đó thật đáng quý. Vai trò của việc từ thiện là có nhiều cách tiếp cận khác nhau, gồm cả lĩnh vực như giáo dục. Chúng ta cần có nhiều thực nghiệm hơn nữa. Nhưng thật tuyệt vời được gặp những nhà hảo tâm, chia sẻ những quan tâm trên cùng một hành trình, về cách họ để cho con cái cùng tham gia công việc ra sao, khi mỗi người làm mỗi việc khác nhau, đó là cách đưa đến thành công hơn trông đợi. Công việc xem ra tiếp tục tiến triển về quy mô trong những năm kế tiếp.
MG: And having people see that other people are making change with philanthropy, I mean, these are people who have created their own businesses, put their own ingenuity behind incredible ideas. If they put their ideas and their brain behind philanthropy, they can change the world. And they start to see others doing it, and saying, "Wow, I want to do that with my own money." To me, that's the piece that's incredible.
MG: Nhìn thấy người khác đang tạo ra biến đổi qua công việc từ thiện, tôi muốn nói đến những người coi đây là việc của chính mình họ mang tài nghệ khéo léo theo sau những ý tưởng tốt đẹp. Nếu họ dành hết tâm trí mình cho công việc từ thiện, họ có thể thay đổi thế giới. Nhìn thấy người khác làm việc thiện, họ tự bảo, "Wow, tôi cũng muốn làm việc đó bằng tiền của mình." Tôi thấy sự kỳ diệu nằm ở trong cái đó.
CA: It seems to me, it's actually really hard for some people to figure out even how to remotely spend that much money on something else. There are probably some billionaires in the room and certainly some successful people. I'm curious, can you make the pitch? What's the pitch?
CA: Tôi thấy quả thực là rất khó để người ta có thể hình dung làm thế nào có thể chi một khoản tiền lớn cho một việc nào đó, ở một nơi xa xôi. Có thể có một số nhà tỷ phú hiện đang ngồi đây và chắc chắn ở đây có những người thành đạt. Tôi tò mò muốn biết, anh chị có toại nguyện không? Đâu là sự toại nguyện?
BG: Well, it's the most fulfilling thing we've ever done, and you can't take it with you, and if it's not good for your kids, let's get together and brainstorm about what we can be done. The world is a far better place because of the philanthropists of the past, and the U.S. tradition here, which is the strongest, is the envy of the world. And part of the reason I'm so optimistic is because I do think philanthropy is going to grow and take some of these things government's not just good at working on and discovering and shine some light in the right direction.
BG: Đấy là điều thỏa lòng nhất mà chúng tôi có được, và anh không thể thỏa mãn và dừng lại đó, nếu có gì đó chưa tốt cho con cái của anh, chúng ta hãy ngồi lại và bàn cho ra xem cần phải làm gì. Thế giới đã tử tế hơn nhiều nhờ các nhà hảo tâm trong quá khứ, với truyền thống tốt đẹp, nước Mỹ rất mạnh về từ thiện, khiến cả thế giới phải ghen tị. Một điều làm tôi rất lạc quan là tôi tin rằng hoạt động từ thiện đang ngày càng gia tăng và nó đang nhận lấy những công việc mà chính phủ làm chưa tốt hay làm chưa xuể và chỉ ra cách đi và phương hướng đúng.
CA: The world's got this terrible inequality, growing inequality problem that seems structural. It does seem to me that if more of your peers took the approach that you two have made, it would make a dent both in that problem and certainly in the perception of that problem. Is that a fair comment?
CA: Thế giới ở trong tình trạng bất bình đẳng khủng khiếp, vấn đề bất bình đẳng ngày càng tăng nó có vẻ như thuộc về cấu trúc. Tôi tin rằng nếu càng nhiều đồng nghiệp của anh chị ở đây làm công việc mà anh chị đã làm thì điều đó sẽ có tác dụng không chỉ khắc phục tình trạng mà còn thay đổi nhận thức. Liệu tôi nghĩ thế có đúng không?
BG: Oh yeah. If you take from the most wealthy and give to the least wealthy, it's good. It tries to balance out, and that's just.
BG: Vâng đúng. Nếu ta nhận từ người giàu nhất đem cho người nghèo nhất, thì đó là tốt lành. Việc đó làm cân bằng, cho nên là hợp lẽ.
MG: But you change systems. In the U.S., we're trying to change the education system so it's just for everybody and it works for all students. That, to me, really changes the inequality balance.
MG: Nhưng anh thay đổi chế độ. Ở Mỹ, chúng ta đang cố thay đổi hệ thống giáo dục để nó thành cơ hội cho tất cả mọi người và nó có hiệu quả cho tất cả sinh viên. Tôi nghĩ điều đó sẽ thực sự biến đổi tình trạng bất bình đẳng.
BG: That's the most important. (Applause)
BG: Đó là điều quan trọng nhất. (Vỗ tay)
CA: Well, I really think that most people here and many millions around the world are just in awe of the trajectory your lives have taken and the spectacular degree to which you have shaped the future. Thank you so much for coming to TED and for sharing with us and for all you do.
CA: Vâng, tôi tin rằng hầu hết mọi người ở đây và hàng triệu người trên thế giới đều ngưỡng mộ những quyết định mà anh chị đã chọn trong đời và mức độ ảnh hưởng lớn lao mà anh chị mang đến cho tương lai. Cám ơn anh chị rất nhiều vì đã đến với TED và chia sẻ với chúng tôi công việc anh chị đã làm.
BG: Thank you. MG: Thank you. (Applause)
BG: Cám ơn. MG: Cám ơn. (Vỗ tay)
BG: Thank you. MG: Thank you very much. BG: All right, good job. (Applause)
BG: Cảm ơn. MG: Cảm ơn rất nhiều. BG: Thế em ạ, em làm rất tốt. (Vỗ tay)