You've heard of your IQ, your general intelligence, but what's your Psy-Q? How much do you know about what makes you tick, and how good are you at predicting other people's behavior or even your own? And how much of what you think you know about psychology is wrong? Let's find out by counting down the top myths of psychology.
Hẳn bạn đã biết về I.Q, hay chỉ số thông minh vậy Psy-Q là gì? Bạn biết bao nhiêu về những gì khiến bạn hành xử như vậy, và bạn giỏi tiên đoán hành vi người khác hay thậm chí của chính bạn ra sao? Và bạn nghĩ bao nhiêu trong những gì mình biết về tâm lí học là sai? Hãy tìm ra bằng việc đếm ngược top 10 giai thoại về tâm lí học.
You've probably heard it said that when it comes to their psychology, it's almost as if men are from Mars and women are from Venus. But how different are men and women, really? To find out, let's start by looking at something on which men and women really do differ and plotting some psychological gender differences on the same scale. One thing men and women do really differ on is how far they can throw a ball. So if we look at the data for men here, we see what is called a normal distribution curve. A few men can throw a ball really far, a few men, not far at all, but most, a kind of average distance. And women share the same distribution as well, but actually, there's quite a big difference. In fact, the average man can throw a ball further than about 98 percent of all women.
Bạn có lẽ đã nghe nói rằng khi nói về tâm lí của mình, thì như thể là đàn ông đến từ sao hỏa, và phụ nữ đến từ sao Kim. Nhưng đàn ông và phụ nữ thực sự khác nhau ra sao? Để tìm hiểu, hãy bắt đầu bằng việc nhìn vào thứ gì đó mà cả đàn ông và phụ nữ đều thực sự làm khác và chỉ ra những khác biệt giới tính về mặt tâm lí trên cùng bình diện. Một điều đàn ông và phụ nữ làm thực sự khác nhau là khoảng cách họ có thể ném một quả bóng. Vậy nếu ta nhìn vào số liệu cho đàn ông ở đây, ta thấy điều được cho là một đường cong phân bổ bình thường. Một vài người có thể ném bóng đi rất xa, và một vài thì không hề, nhưng đa số là ở khoảng cách trung bình. Và phụ nữ cũng có cùng sự phân bổ như vậy, nhưng thực ra có một sự khác biệt khá lớn. Trên thực tế, đàn ông trung bình có thể ném bóng xa hơn khoảng 98% phụ nữ.
Now let's look at what some psychological gender differences look like on the same standardized scale. Any psychologist will tell you that men are better at spatial awareness than women -- things like map-reading, for example -- and it's true. But let's have a look at the size of this difference. It's tiny; the lines are so close together, they almost overlap. In fact, the average woman is better than 33 percent of all men, and of course, if that was 50 percent, then the two genders would be exactly equal. It's worth bearing in mind that this difference and the next one I'll show you are pretty much the biggest psychological gender differences ever discovered in psychology.
Vậy giờ hãy nhìn vào một vài sự khác biệt tâm lí giới có vẻ như ở cùng cán cân tiêu chuẩn. Bất kì nhà tâm lí học nào cũng sẽ nói với bạn rằng đàn ông giỏi nhận thức không gian hơn phụ nữ - nên ví dụ như đọc bản đồ - và điều đó đúng, nhưng hãy nhìn vào tầm cỡ của sự khác biệt này, Rất nhỏ; đường phân cách quá gần đến nỗi gần như chồng lên nhau. Trên thực tế, phụ nữ trung bình giỏi hơn 33% đàn ông, và dĩ nhiên, nếu đó là 50%, thì hai giới sẽ chính xác là ngang bằng. Đáng lưu ý là sự khác biệt này và cái tiếp tôi sẽ chỉ cho các bạn có lẽ là những khác biệt tâm lí giới lớn nhất từng được phát hiện trong tâm lí học.
Here's the next one. Any psychologist will tell you that women are better with language and grammar than men. Here's performance on the standardized grammar test. There, the women. There go the men. Again, yes, women are better on average, but the lines are so close that 33 percent of men are better than the average woman. And again, if it was 50 percent, that would represent complete gender equality. So it's not really a case of Mars and Venus. It's more a case of, if anything, Mars and Snickers: basically the same, but one's maybe slightly nuttier than the other.
Và đây là cái tiếp theo. Nhà tâm lí học nào cũng sẽ bảo bạn rằng phụ nữ giỏi hơn với ngôn ngữ và ngữ pháp so với đàn ông. Và đây là kết quả trong bài kiểm tra ngữ pháp tiêu chuẩn. Phụ nữ ở đây. Đàn ông ở đây. Lại lần nữa, vâng, trung bình thì phụ nữ giỏi hơn, nhưng ranh giới rất mong manh đến nỗi 33% đàn ông giỏi hơn một phụ nữ trung bình, và lại nữa, nếu đó là 50%, nó sẽ đại diên cho sự cân bằng giới hoàn toàn. Vậy đó không thực sự là một trường hợp của sao hỏa và sao kim. Nó giống hơn với trường hợp của hãng Mars (Sao hỏa) và Snickers (Nhãn hàng socola của công ti này). về cơ bản là giống nhau, nhưng một cái có lẽ ít nhiều hấp dẫn hơn cái kia.
When making a cake, do you prefer to use a recipe book with pictures? Yeah, a few people. Have a friend talk you through? Or have a go, making it up as you go along? Quite a few people there. OK, so if you said A, then this means that you're a visual learner, and you learn best when information is presented in a visual style. If you said B, it means you're an auditory learner, that you learn best when information is presented to you in an auditory format. And if you said C, it means that you're a kinesthetic learner, that you learn best when you get stuck in and do things with your hands.
Tôi sẽ không nói ra cái nào. Giờ các bạn đã hứng thú hơn rồi. Hãy phân tích tâm lí bạn bằng việc sử dụng bài kiểm tra tâm lí của Rorschach. Vậy bạn có thể thấy 2, tôi không biết, 2 con gấu hay hai người hay cái gì đó. Nhưng bạn nghĩ chúng (họ) đang làm gì? Giơ tay lên nếu bạn nghĩ họ đang nói xin chào. Không nhiều người. Được rồi. Giơ tay lên nếu bạn nghĩ chúng đang đập tay. Được rồi. Nếu bạn nghĩ chúng đang đánh nhau thì sao nhỉ? Chỉ rất ít người ở kia. Vâng, vậy nếu bạn nghĩ họ đang nói xin chào hay đang đập tay, thì tức là bạn là một người thân thiện. Nếu bạn nghĩ chúng đang đánh nhau,
Except, of course, as you've probably guessed, that it doesn't, because the whole thing is a complete myth. Learning styles are made up and are not supported by scientific evidence. We know this because in tightly controlled experimental studies when learners are given material to learn, either in their preferred style or an opposite style, it makes no difference at all to the amount of information they retain. And if you think about it for just a second, it's obvious that this has to be true. It's obvious that the best presentation format depends not on you, but on what you're trying to learn. Could you learn to drive a car, for example, just by listening to someone telling you what to do, with no kinesthetic experience? Could you solve simultaneous equations by talking them through in your head, without writing them down? Could you revise for your architecture exams using interpretive dance if you're a kinesthetic learner? No; what you need to do is match the material to be learned to the presentation format, not you.
bạn có lẽ là người hơi khó tính và hung hăng. Cơ bản thì, bạn là một người yêu hay một chiến binh. Còn cái này thì sao? Đây không thực sự là một cuộc biểu quyết, nên khi tôi đếm đến 3, mọi người hãy hô to xem bạn nhìn thấy gì. Một, hai, ba. (Khán giả hô vang) Tôi nghe là chuột hamster. Ai nói rằng hamster? Điều đó rất đáng lo ngại. Một người ở kia nói rằng hamster. Vâng, bạn nên thấy một con vật hai chân gì đó ở đây, và rồi hình ảnh qua gương của chúng ở đó. Nếu bạn không thấy, thì tức là bạn gặp khó khăn trong việc xử lí những bình huống phức tạp khi có nhiều chuyện đang diễn ra. Dĩ nhiên, ngoại trừ việc nó không có ý nghĩa như vậy. Bài kiểm tra Rorschach cơ bản không có giá trị pháp lí trong việc chẩn đoán tính cách của một người và không được sử dụng bởi các nhà tâm lí học ngày nay. Trên thực tế, một nghiên cứu gần đây tìm ra rằng khi bạn cố gắng chẩn đoán tính cách người khác với bài kiểm tra này, chứng tâm thần phân liệt đã được phát hiện trong khoảng 1/6 những người hoàn toàn bình thường. Vậy nếu bạn không làm tốt bài kiểm tra này,
I know many of you are A-level students that will have recently gotten your GCSE results. And if you didn't quite get what you were hoping for, then you can't really blame your learning style. But one thing that you might want to think about blaming is your genes. So what this is all about is that a recent study at University College London found that 58 percent of the variation between different students and their GCSE results was down to genetic factors. That sounds like a very precise figure. So how can we tell? Well, when we want to unpack the relative contributions of genes and the environment, what we can do is a twin study. Identical twins share 100 percent of their environment and 100 percent of their genes, whereas nonidentical twins share 100 percent of their environment, but just like any brother and sister, share only 50 percent of their genes. So by comparing how similar GCSE results are in identical twins versus nonidentical twins and doing some clever maths, we can get an idea of how much variation in performance is due to the environment, and how much is due to genes. And it turns out that it's about 58 percent due to genes. This isn't to undermine the hard work that you and your teachers here put in. If you didn't quite get the GCSE results that you were hoping for, then you can always try blaming your parents, or at least their genes.
có lẽ bạn không phải người giỏi nhìn hình cho lắm. Vậy hãy làm một câu hỏi nhanh khác để tìm ra. Khi làm bánh, bạn có thích - xin hãy giơ tay lên với mỗi cái như khi nãy - bạn thích dùng một cuốn công thức có hình ảnh? Vâng, một vài người. Có một người bạn chỉ dần từng bước? Hay thử tự mình nghĩ sao làm vậy? Khá ít người ở kia. Vâng, nếu bạn nói A, thì tức là bạn là một người học từ hình ảnh và bạn học hỏi tốt nhất khi thông tin được trình bày dưới dạng hình. Nếu bạn nói B, tức là bạn là một người học bằng tai, và bạn học tốt nhất khi thông tin được đưa đến dưới hình thức âm thanh. Và nếu bạn nói C, tức là bạn là một người học vân động, và học tốt nhất khi có hứng thú và tự làm mọi thứ với đôi bàn tay mình. Dĩ nhiên, ngoại trừ việc, chắc bạn đã đoán ra, rằng nó không phải vậy, vì toàn bộ hoàn toàn chỉ là một giai thoại. Các phong cách học được tạo ra và không được khoa học kiểm chứng. Vậy ta biết được điều này vì những nghiên cứu thực nghiệm được kiểm soát chặt chẽ, khi người học được trao cho tài liệu để học hoặc theo phong cách ưa thích của họ hay theo cách đối ngược, thì không có gì khác biệt trong lượng thông tin họ giữ lại được. Và nếu bạn nghĩ về điều đó chỉ một chốc lát, rất hiển nhiên rằng nó phải là sự thật. Rõ ràng là hình thức trình bày tốt nhất không phụ thuộc vào bạn, mà vào điều bạn đang cố học. Giả sử, liệu bạn có thể học lái ô tô chỉ bằng nghe ai đó bảo bạn phải làm gì
One thing that you shouldn't blame is being a left-brained or right-brained learner, because again, this is a myth. The myth here is that the left brain is logical, it's good with equations like this, and the right brain is more creative, so the right brain is better at music. But again, this is a myth, because nearly everything you do involves nearly all parts of your brain talking together, even just the most mundane thing like having a normal conversation. However, perhaps one reason why this myth has survived is that there is a slight grain of truth to it. A related version of the myth is that left-handed people are more creative than right-handed people, which kind of makes sense because your brain controls the opposite hand. So in left-handed people, the right side of the brain is slightly more active than the left side of the brain, and the idea is the right-hand side is more creative. Now, it isn't true per se that left-handed people are more creative than right-handed people. But what is true is that ambidextrous people, or people who use both hands for different tasks, are more creative thinkers than one-handed people, because being ambidextrous involves having both sides of the brain talk to each other a lot, which seems to be involved in creative and flexible thinking. The myth of the creative left-hander arises from the fact that being ambidextrous is more common amongst left-handers than right-handers, so a grain of truth in the idea of the creative left-hander, but not much.
với không một trải nghiệm vận động? Liệu bạn có thể giải các phương trình đồng thời bằng việc bàn về chúng trong đầu và không hề viết chúng ra? Liệu bạn có thể ôn tập cho bài kiểm tra kiến trúc bằng việc sử dụng điệu nhảy trình diễn nếu bạn là một người học vận động? Không. Điều bạn cần làm là thích ứng tài liệu cần học với hình thức trình bày, không phải với bạn. Tôi biết nhiều trong các bạn là những học sinh A-level và sẽ sớm nhận được kết quả GCSE của mình. Và nếu bạn dường như không đạt được những gì mình mong đợi, thì bạn không thể đỗ lỗi cho phong cách học của mình, mà một điều bạn có thể muốn nghĩ đến là gen của mình. Vậy điều này tất cả có liên quan đến một nghiên cứu gần đây ở Đại học Cao Đẳng Luân Đôn tìm ra rằng 58% sự thay đổi giữa những học sinh khác nhau và kết quả GCSE của họ được quy cho những nhân tố gen của họ. Nghe như là một con số chính xác, vậy bằng cách nào ta có thể nói vậy? Vâng, khi ta muốn gỡ bỏ những đóng góp liên quan của gen và môi trường, điều ta có thể làm là một nghiên cứu về các cặp song sinh. Những cặp sinh đôi cùng trứng có cùng 100% môi trường và cùng chung 100% gen, trong khi những cặp khác trứng có cùng 100% môi trường, nhưng cũng như anh/em trai và chị/em gái, chỉ có cùng 50% gen. Do đó bằng việc so sánh sự tương đồng giữa các kết quả GCSE ở các cặp cùng trứng với những cặp khác trứng, và làm một vài phéo toán khéo léo, ta có thể nắm được sự thay đổi và kết quả phụ thuộc bao nhiêu vào môi trường, và bao nhiêu vào gen. Và hóa ra có khoảng 58% là do gen.
A related myth that you've probably heard of is that we only use 10 percent of our brains. This is, again, a complete myth. Nearly everything that we do, even the most mundane thing, uses nearly all of our brains.
Vâng điều này không nhằm hạ thấp những nỗ lực mà bạn và giáo viên của mình đã đặt vào. Nếu bạn không dường như có được kết quả GCSE mình mong muốn, thì bạn luôn có thể đổ lỗi cha mẹ mình, hay ít nhất là gen của họ.
That said, it is of course true that most of us don't use our brainpower quite as well as we could. So what could we do to boost our brainpower? Maybe we could listen to a nice bit of Mozart. Have you heard of the idea of the Mozart effect? The idea is that listening to Mozart makes you smarter and improves your performance on IQ tests. Now again, what's interesting about this myth is that although it's basically a myth, there is a grain of truth to it. So the original study found that participants who were played Mozart music for a few minutes did better on a subsequent IQ test than participants who simply sat in silence. But a follow-up study recruited some people who liked Mozart music and then another group of people who were fans of the horror stories of Stephen King. And they played the people the music or the stories. The people who preferred Mozart music to the stories got a bigger IQ boost from the Mozart than the stories, but the people who preferred the stories to the Mozart music got a bigger IQ boost from listening to the Stephen King stories than the Mozart music. So the truth is that listening to something that you enjoy perks you up a bit and gives you a temporary IQ boost on a narrow range of tasks. There's no suggestion that listening to Mozart, or indeed Stephen King stories, is going to make you any smarter in the long run.
Một điều bạn không nên đổ lỗi là việc làm một người não trái hay não phải, vì lại lần nữa, đó là một giai thoại. Vậy giai thoại ở đây là rằng não trái hợp với logic, nó giỏi với những phương trình kiểu này, và não phải sáng tạo hơn, nên giỏi về âm nhạc hơn. Nhưng lần nữa, đậy là một giai thoại vì gần như mọi việc bạn làm liên quan gần như tất cả các phần của não bộ phối hợp cùng nhau, thậm chí chỉ việc đơn thuần nhất là một cuộc nói chuyện bình thường. Tuy nhiên, có lẽ một lí do vì sao nó vẫn tồn tại là rằng có một mẩu sự thật trong đó. Vậy một phiên bản liên quan của giai thoại này là rằng người thuận tay trái sáng tạo hơn người thuận tay phải, điều khá dễ hiểu vì não bạn kiểm soát tay đối diện, nên hỡi những người thuận tay trái, phần não bên phải có phần chủ động hơn phần não bên trái, và ý tưởng là phần tay trái sáng tạo hơn. Bây giờ, điều này tự nó không còn đúng nữa rằng người thuận tay trái sáng tạo hơn người thuận tay phải. Điều đúng là rằng những người thuận cả hai tay, hay người dùng cả hai tay cho những việc khác nhau, là những người suy nghĩ sáng tạo hơn người chỉ thuận một tay, vì việc thuận hai tay liên quan đến việc để hai bên não bộ trao đổi lẫn nhau rất nhiều, điều dường như liên quan đến việc tạo nên suy nghĩ linh hoạt. Giai thoại về người thuật tay trái sáng tạo bắt nguồn từ sự thật rằng người thuận hai tay là thường thấy ở người thuận tay trái hơn là tay phải,
Another version of the Mozart myth is that listening to Mozart can make you not only cleverer but healthier, too.
vậy là có chút sự thật trong quan niệm về người thuận tay trái sáng tạo hơn, nhưng không nhiều.
Unfortunately, this doesn't seem to be true of someone who listened to the music of Mozart almost every day, Mozart himself, who suffered from gonorrhea, smallpox, arthritis, and, what most people think eventually killed him in the end, syphilis. This suggests that Mozart should have been a bit more careful, perhaps, when choosing his sexual partners. But how do we choose a partner?
Một giai thoại có liên quan bạn có lẽ đã nghe nói là rằng ta chỉ dùng 10% não bộ. Lần nữa, đây hoàn toàn chỉ là một giai thoại. Gần như mọi thứ ta làm, dù là điều nhỏ nhặt nhất, đều dùng gần như tất cả não bộ. Tức là, dĩ nhiên là đúng rằng đa số chúng ta không dùng năng lượng não bộ hết mức có thể. Vậy ta có thể làm gì để tăng cường năng lượng não bộ? Có lẽ ta có thể nghe chút nhạc Mô-da.
So a myth that I have to say is sometimes spread a bit by sociologists is that our preferences in a romantic partner are a product of our culture, that they're very culturally specific. But in fact, the data don't back this up. A famous study surveyed people from [37] different cultures across the globe from Americans to Zulus, on what they look for in a partner. And in every single culture across the globe, men placed more value on physical attractiveness in a partner than did women, and in every single culture, too, women placed more importance than did men on ambition and high earning power. In every culture, too, men preferred women who were younger than themselves, an average of, I think it was 2.66 years. And in every culture, too, women preferred men who were older than them, so an average of 3.42 years, which is why we've got here, "Everybody needs a Sugar Daddy."
Bạn đã bao giờ nghe về ý tưởng về hiệu ứng Mô-da? Vậy ý tưởng là rằng việc nghe nhạc Mô-da khiến bạn thông minh hơn và cải thiện kết quả trong bài kiểm tra IQ. Lại lần nữa, điều thú vị về giai thoại này là rằng dù nó cơ bản là một giai thoại, có chút sự thật trong đó. Nghiên cứu ban đầu đã tìm ra rằng những người tham gia được nghe nhạc Mô-da một vài phút làm tốt hơn trong một bài kiểm tra IQ sau đó hơn những người chỉ đơn giản ngồi trong yên lặng. Nhưng một nghiên cứu kế thừa đã nhờ vài người thích nhạc Mô-da và một nhóm người khác là fan truyện kinh dị của Stephen King. Và họ đã cho những người này nghe nhạc hoặc truyện. Những người thích nhạc Mô-da hơn là truyện có một sự tăng IQ lớn hơn so với việc nghe truyện kể, nhưng những người thích truyện hơn nhạc Mô-da có một sự tăng trưởng IQ lớn hơn từ việc nghe truyện của Stephen King so với nhạc Mô-da. Vậy sự thật là rằng việc nghe thứ gì đó bạn thích
(Laughter)
phần nào tạo hứng thú cho bạn và giúp IQ của bạn tăng lên tạm thời
So moving on from trying to score with a partner to trying to score in basketball or football or whatever your sport is. The myth here is that sportsmen go through "hot hand" streaks, Americans call them, or "purple patches," we sometimes say in England, where they just can't miss, like this guy here. But in fact, what happens is that if you analyze the pattern of hits and misses statistically, it turns out that it's nearly always at random. Your brain creates patterns from the randomness. If you toss a coin, a streak of heads or tails is going to come out somewhere in the randomness, and because the brain likes to see patterns where there are none, we look at these streaks and attribute meaning to them and say, "Yeah he's really on form today," whereas actually you would get the same pattern if you were just getting hits and misses at random.
trong một phạm vi hẹp các hoạt động. Không có đề xuất rằng việc nghe nhạc Mô-da, hay quả thực truyện Stephen King sẽ khiến bạn thông minh hơn về lâu về dài. Một phiên bản khác của giai thoại Mô-da là rằng việc nghe nhạc Mô-da có thể khiến bạn không chỉ thông minh mà còn khỏe mạnh hơn. Không may thay, điều này cũng không có vẻ đúng với những người nghe nhạc Mô-da gần như mỗi ngày, bản thân Mô-da, người mắc chứng bệnh lậu, đậu mùa, viêm khớp, và, điều đa số cho rằng cuối cùng đã giết chết ông, bệnh giang mai. Điều này cho thấy rằng Mô-da lẽ ra nên cẩn thận hơn, có lẽ, khi chọn bạn đời của mình. Nhưng ta chọn bạn đời bằng cách nào? Vậy một giai thoại tôi phải nói ra, đã được lan truyền bởi các nhà xã hội học
An exception to this, however, is penalty shootouts. A recent study looking at penalty shootouts in football showed that players who represent countries with a very bad record in penalty shootouts, like, for example, England, tend to be quicker to take their shots than countries with a better record, and presumably as a result, they're more likely to miss.
là rằng sự ưa thích hơn vào một người bạn tình là một sản phẩm của nên văn hóa, rằng chúng là đặc trưng văn hóa. Nhưng trên thực tế, số liệu không cho thấy điều này. Một nghiên cứu nổi tiếng đã khảo sát mọi người từ 37 nền văn hóa khác nhau trên toàn cầu, từ người Mỹ đến người Zulu (Nam Phi), về điều họ tìm kiếm ở một người bạn đời. Và trong mỗi nền văn hóa riêng biệt trên toàn cầu,
Which raises the question of if there's any way we could improve people's performance. And one thing you might think about doing is punishing people for their misses and seeing if that improves them. This idea, the effect that punishment can improve performance, was what participants thought they were testing in Milgram's famous learning and punishment experiment that you've probably heard about if you're a psychology student. The story goes that participants were prepared to give what they believed to be fatal electric shocks to a fellow participant when they got a question wrong, just because someone in a white coat told them to.
đàn ông đặt nặng hơn về sự hấp dẫn sinh lí ở một người bạn đời hơn là phụ nữ, và cũng trong mỗi nền văn hóa riêng, phụ nữ đặt nặng hơn đàn ông ở tham vọng và quyền lực. Cũng trong mỗi nền văn hóa, đàn ông thích những người phụ nữ trẻ hơn mình, trung bình, tôi cho là 2,66 năm, và cũng trong mỗi nền văn hóa, phụ nữ thích đàn ông lớn tuổi hơn mình, trung bình khoảng 3,42 tuổi, đó là lí do tại sao ta có ở đây "Mỗi người cần một người "cha nuôi"". Vậy đi từ việc cố gắng ghi điểm với bạn tình đến việc cố ghi điểm trong môn bóng rổ, bóng đá hay bất kì môn thể thao nào bạn tham gia.
But this story is a myth for three reasons. Firstly, and most crucially, the lab coat wasn't white. It was, in fact, grey. Secondly, the participants were told before the study and reminded any time they raised a concern, that although the shocks were painful, they were not fatal and indeed caused no permanent damage whatsoever. And thirdly, participants didn't give the shocks just because someone in the coat told them to. When they were interviewed after the study, all the participants said that they firmly believed that the learning and punishment study served a worthy scientific purpose which would have enduring gains for science, as opposed to the momentary, nonfatal discomfort caused to the participants.
Giai thoại ở đây là rằng vận động viên đi từ chuỗi hot-hand (thành công trong bóng rổ), người Mỹ gọi như vậy, hay purple patch (giai đoạn thành công), ta thường nói ở Anh, nơi người ta không thể bỏ lỡ, như anh chàng ở đây. Nhưng trên thực tế, điều xảy ra là rằng nếu bạn phân tích kiểu mẫu của những quả trúng và quả trật theo số liệu, hóa ra là nó gần như luôn ngẫu nhiên. Não bạn tạo ra những kiểu mẫu từ sự ngẫu nhiên. Nếu bạn tung một đồng xu, một chuỗi ngửa và sấp sẽ xuất hiện đâu đó trong sự ngẫu nhiên, và vì não bộ thích nhìn thấy những kiểu mẫu ở nơi không hề có, ta nhìn vào những chuỗi này và gán ý nghĩa cho chúng và nói, "Yeah, anh ta sẽ chơi tốt hôm nay." trong khi thực sự bạn sẽ nhận cùng kiểu mẫu nếu bạn chỉ nhận được những cú trúng và trật ngẫu nhiên.
OK, so I've been talking for about 12 minutes now, and you've probably been sitting there listening to me, analyzing my speech patterns and body language and trying to work out if you should take any notice of what I'm saying, whether I'm telling the truth or whether I'm lying. But if so, you've probably completely failed, because although we all think we can catch a liar from their body language and speech patterns, hundreds of psychological tests over the years have shown that all of us, including police officers and detectives, are basically at chance when it comes to detecting lies from body language and verbal patterns. Interestingly, there is one exception: TV appeals for missing relatives. It's quite easy to predict when the relatives are missing and when the appealers have, in fact, murdered the relatives themselves. So hoax appealers are more likely to shake their heads, to look away, and to make errors in their speech, whereas genuine appealers are more likely to express hope that the person will return safely and to avoid brutal language. So, for example, they might say "taken from us" rather than "killed."
Vậy một ngoại lệ cho điều này, tuy nhiên, là những cú sút penaty trong bóng đá. Một nghiên cứu gần đây khảo sát các cú sút penaty trong bóng đá chỉ ra rằng những người chơi đại diện những nước với lịch sử xấu về các quả sút phạt, ví dụ như nước Anh, có xu hướng thực hiện cú sút của mình nhanh hơn những nước có lịch sử tốt hơn, và kết quả là, như bạn có thể đoán, họ có khả năng bỏ lỡ cao hơn. Điều này đặt ra câu hỏi là liệu có khả năng nào ta có thể cải thiện sự thực hiện của người khác. Và một điều bạn có thể nghĩ đến là phạt những người bỏ lỡ và xem liệu điều đó có giúp họ tốt hơn không. Ý tưởng này, ảnh hưởng rằng sự trừng phạt có thể cải thiện sự thực hiện, là điều những người tham gia nghĩ họ đang thử nghiệm trong thí nghiệm học và phạt nổi tiếng của Milgram mà bạn có lẽ đã nghe nói đến nếu bạn là một học sinh khoa tâm lí. Chuyện kể rằng những người tham gia sẵn sàng để trao cái mà họ tin là những ổ điện chết người cho một người kia khi họ trả lời sai, chỉ vì ai đó trong chiếc áo choàng trắng bảo họ làm vậy. Nhưng câu chuyện này là một giai thoại vì ba lí do. Đầu tiên và quan trọng nhất, áo phòng thí nghiệm không có màu trắng, trên thực tế là xám.
Speaking of which, it's about time I killed this talk, but before I do, I just want to give you, in 30 seconds, the overarching myth of psychology. The myth is that psychology is just a collection of interesting theories, all of which say something useful and all of which have something to offer. What I hope to have shown you in the past few minutes is that this isn't true. What we need to do is assess psychological theories by seeing what predictions they make, whether that is that listening to Mozart makes you smarter, that you learn better when information is presented in your preferred learning style or whatever it is, all of these are testable empirical predictions, and the only way we can make progress is to test these predictions against the data in tightly controlled experimental studies. And it's only by doing so that we can hope to discover which of these theories are well supported, and which, like all the ones I've told you about today, are myths.
Thứ hai, những người tham gia được yêu cầu trước nghiên cứu và được nhắc nhở mỗi lần họ quan ngại, rằng dù cơn giật rất đau đớn, chúng hoàn toàn không gây chết người và thực tế là chẳng gây một tổn thương vĩnh viễn nào hết. Và thứ ba, những người tham gia đã không trao dây điện chỉ vì ai đó trong chiếc áo choàng bảo họ làm vậy. Khi họ được phỏng vấn sau nghiên cứu, tất cả nói rằng họ tin tưởng chắc chắn rằng nghiên cứu học hỏi và trừng phạt phục vụ một mục đích khoa học xứng đáng cái mà sẽ có những gặt hái lâu bền cho khoa học so với sự không thoải mái tạm thời được gây đến cho người tham gia. Được rồi, vậy là tôi vừa nói được khoảng 12 phút, và bạn có lẽ đã luôn ngồi kia lắng nghe tôi, phân tích những cách dùng từ và ngôn ngữ cơ thể của tôi và cố gắng hiểu ra liệu bạn có nên chú ý đến những gì tôi đang nói không, liệu tôi có đang nói thật hay nói dối, nhưng nếu là vậy, bạn có lẽ đã hoàn toàn thất bại,
Thank you.
vì dù ta đều nghĩ rằng ta có thể nhận ra kẻ nói dối
(Applause)
từ ngôn ngữ cơ thể và cấu trúc lời nói của họ,