Beau Lotto: So, this game is very simple. All you have to do is read what you see. Right? So, I'm going to count to you, so we don't all do it together.
Beau Lotto: Trò chơi này rất đơn giản. Tất cả những gì bạn phải làm là đọc to những gì bạn nhìn thấy, được không? Vậy, tôi sẽ đếm và chúng ta có thể đọc cùng môt lúc.
Okay, one, two, three.Audience: Can you read this?
1, 2, 3. Khán giả: Bạn có thể đọc cái này không?
BL: Amazing. What about this one? One, two, three.Audience: You are not reading this.
BL: Rất tốt. Thế còn câu này? 1, 2, 3. Khán giả: Bạn đang không đọc cái này.
BL: All right. One, two, three. (Laughter) If you were Portuguese, right? How about this one? One, two, three.
BL: Tốt. 1, 2, 3. (Tiếng cười rộ lên) Nếu bạn là người Bồ Đào Nha, phải không? Vậy câu này thì sao? 1, 2, 3.
Audience: What are you reading?
Khán giả: Bạn đang đọc cái gì thế?
BL: What are you reading? There are no words there. I said, read what you're seeing. Right? It literally says, "Wat ar ou rea in?" (Laughter) Right? That's what you should have said. Right? Why is this?
Bạn đang đọc cái gì? Trên đây đâu có chữ nào vậy đâu. Tôi đã nói là: hãy đọc những gì bạn trông thấy, đúng ko? Theo câu chữ, “at a u rê-a in” đúng không? (tiếng cười) Đó là điều đáng lẽ các bạn phải nói. Phải không nào? Tại sao lại như vậy?
It's because perception is grounded in our experience. Right? The brain takes meaningless information and makes meaning out of it, which means we never see what's there, we never see information, we only ever see what was useful to see in the past. All right? Which means, when it comes to perception, we're all like this frog. (Laughter) Right? It's getting information. It's generating behavior that's useful. (Laughter) (Laughter)
Đó là bởi nhận thức của chúng ta được huấn luyện bởi kinh nghiệm của chúng ta. Đúng không? Não bộ tiếp thu những thông tin vô nghĩa và dựa trên đó hình thành nên ý nghĩa, điều này có nghĩa chúng ta chưa bao giờ thấy những gì ở đó, chúng ta chưa bao giờ thấy thông tin, mà chúng ta chỉ thấy những gì có ích để thấy trong quá khứ. Được rồi. Điều này có nghĩa, khi nó thành tri giác, tất cả chúng ta đều giống chú ếch này. (Tiếng cười) Đúng không? Nó tiếp nhận thông tin. Nó hình thành hành vi có ích. (Tiếng cười) (Tiếng cười)
(Video) Man: Ow! Ow! (Laughter) (Applause)
Nhân vật trong video: Ow! Ow! (Tiếng cười) (Tiếng vỗ tay)
BL: And sometimes, when things don't go our way, we get a little bit annoyed, right? But we're talking about perception here, right? And perception underpins everything we think, we know, we believe, our hopes, our dreams, the clothes we wear, falling in love, everything begins with perception. Now if perception is grounded in our history, it means we're only ever responding according to what we've done before. But actually, it's a tremendous problem, because how can we ever see differently?
BL: Và đôi khi, khi mọi việc không diễn ra theo cách của chúng ta muốn, chúng ta sẽ có một chút bực bội, đúng không? Nhưng chúng ta đang nói về nhận thức ở đây, đúng không? Và nhận thức làm cơ sở cho tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, chúng ta biết, chúng ta tin tưởng, những hy vọng, những giấc mơ của chúng ta, quần áo chúng ta mặc, tình yêu mọi thứ đều khởi nguồn cùng với nhận thức. Bây giờ, nếu nhận thức của chúng ta được định hình trong lịch sử của chúng ta, nghĩa là chúng ta đang chỉ đáp lại dựa vào những gì chúng ta đã làm trước đó. Nhưng đó thực sự là một vấn đề to tát bởi làm thế nào chúng ta có thế nhìn nhận khác đi?
Now, I want to tell you a story about seeing differently, and all new perceptions begin in the same way. They begin with a question. The problem with questions is they create uncertainty. Now, uncertainty is a very bad thing. It's evolutionarily a bad thing. If you're not sure that's a predator, it's too late. Okay? (Laughter) Even seasickness is a consequence of uncertainty. Right? If you go down below on a boat, your inner ears are you telling you you're moving. Your eyes, because it's moving in register with the boat, say I'm standing still. Your brain cannot deal with the uncertainty of that information, and it gets ill. The question "why?" is one of the most dangerous things you can do, because it takes you into uncertainty. And yet, the irony is, the only way we can ever do anything new is to step into that space. So how can we ever do anything new? Well fortunately, evolution has given us an answer, right? And it enables us to address even the most difficult of questions. The best questions are the ones that create the most uncertainty. They're the ones that question the things we think to be true already. Right? It's easy to ask questions about how did life begin, or what extends beyond the universe, but to question what you think to be true already is really stepping into that space.
Bây giờ, tôi muốn kể cho các bạn nghe một câu chuyện về việc nhìn nhận theo một cách khác đi, và tất cả những nhận thức mới để bắt đầu cùng một cách như nhau. Chúng bắt đầu với một câu hỏi. Vấn đề với các câu hỏi là chúng tạo ra sự không chắc chắn. Sự không chắc chắn này thực sự là một điều tồi tệ. Nó thực sự tồi tệ mang tính chất tiến hóa. Nếu bạn không chắc chắn đó là một kẻ săn mồi, thì chuyện quá muộn rồi. Đồng ý chứ? (Tiếng cười) Ngay cả bệnh say sóng cũng là một hậu quả của sự không chắc chắn. Đúng không? Khi bạn đi xuống cuối khoang thuyền, lỗ tai trong đang nói với bạn rằng bạn đang di chuyển. Đôi mắt của bạn, bởi nó di chuyển đồng hành cùng với con tàu, nói rằng tôi vẫn đang đứng yên. Bộ não của bạn không thể giải quyết được sự không chắc chắn của thông tin và nó lăn ra bệnh. Câu hỏi “tại sao” là một trong những điều nguy hiểm nhất mà bạn có thể làm bởi vì nó đưa bạn đến với sự không chắc chắn. Và còn nữa, trớ trêu là cách duy nhất chúng ta có thể làm bất cứ điều gì đó mới là bước vào bên trong không gian đó. Như vậy làm thế nào mà chúng ta có thể làm một điều gì đó mới? May mắn thay, sự tiến hóa cho chúng ta lời giải đáp, đúng không? Và nó cho phép chúng ta xác định được ngay cả phần hóc búa nhất của các câu hỏi. Những câu hỏi hay nhất là những câu có thể tạo ra sự rất không chắc chắn. Chúng là những câu mà nghi vấn những điều mà chúng ta cho là luôn đúng. Phải không? Dễ dàng để đặt câu hỏi sự sống đã bắt đầu như thế nào, hay điều gì tồn tại bên trong vũ trụ, nhưng để nghi ngờ những gì mà chúng ta nghĩ là đã đúng thì lại thực sự đi vào trong không gian đó.
So what is evolution's answer to the problem of uncertainty? It's play. Now play is not simply a process. Experts in play will tell you that actually it's a way of being. Play is one of the only human endeavors where uncertainty is actually celebrated. Uncertainty is what makes play fun. Right? It's adaptable to change. Right? It opens possibility, and it's cooperative. It's actually how we do our social bonding, and it's intrinsically motivated. What that means is that we play to play. Play is its own reward.
Vậy câu trả của sự tiến hóa nào cho vấn đề của sự không chắc chắn? Đó chính là vui chơi. Vui chơi không chỉ đơn thuần là quá trình. Các chuyên gia trong lĩnh vực vui chơi sẽ chứng minh với bạn rằng thực sự đó là một cách của sự sống. Vui chơi là một trong những nỗ lực chỉ của con người - nơi mà sự không chắc chắn thực sự được ca ngợi. Sự không chắc chắn là điều làm cho việc chơi trở nên vui vẻ. Đúng không? Nó có thể thích nghi để thay đổi. Đúng không? Nó mở ra khả năng có thể, và nó hợp tác. Đó thật ra là cách mà chúng ta thực hiện gắn kết xã hội và nó thôi thúc từ bên trong. Điều đó có nghĩa là chúng ta chơi là để vui chơi. Vui chơi là một phần thưởng của chính nó.
Now if you look at these five ways of being, these are the exact same ways of being you need in order to be a good scientist. Science is not defined by the method section of a paper. It's actually a way of being, which is here, and this is true for anything that is creative. So if you add rules to play, you have a game. That's actually what an experiment is.
Bây giờ, nếu bạn nhìn vào 5 cách để tồn tại này, chúng chính xác là cách sống mà bạn cần để trở thành một nhà khoa học giỏi. Khoa học không phải là được định nghĩa bởi phần phương pháp trên lý thuyết. Mà nó thực sự là cách thức của sự tồn tại, những điều đó ở ngay đây, và đúng với tất thảy những gì mang tính chất sáng tạo. Vậy, nếu bạn thêm vào những luật lệ để chơi, bạn sẽ có trò chơi. Đó là tất cả những gì của một thực nghiệm, thực chất là như thế.
So armed with these two ideas, that science is a way of being and experiments are play, we asked, can anyone become a scientist? And who better to ask than 25 eight- to 10-year-old children? Because they're experts in play. So I took my bee arena down to a small school in Devon, and the aim of this was to not just get the kids to see science differently, but, through the process of science, to see themselves differently. Right?
Vậy, trang bị với hai ý tưởng, khoa học là một cách của sự sống và các thực nghiệm là vui chơi, chúng tôi đã hỏi phải chăng bất cứ ai cũng có thể là một nhà khoa học? Và hỏi ai có thể ai tốt hơn 25 đứa trẻ trong độ tuổi từ 8 đến 10? Bởi bọn trẻ là những chuyên gia trong vui chơi. Vậy nên tôi đã mang bầy ong của tôi xuống một ngôi trường nhỏ ở Devon, và mục đích của chuyện này là không chỉ để cho bọn trẻ nhìn khoa học một cách khác đi, mà, thông qua quá trình của khoa học, để bọn trẻ nhìn nhận bản thân chúng khác đi, Đúng không?
The first step was to ask a question.
Bước đầu tiên là hỏi một câu hỏi.
Now, I should say that we didn't get funding for this study because the scientists said small children couldn't make a useful contribution to science, and the teachers said kids couldn't do it. So we did it anyway. Right? Of course.
Bây giờ, tôi nên nói ra, chúng tôi đã không có được tài trợ cho nghiên cứu này bởi các nhà khoa học nói trẻ con không thể đóng góp hữu ích gì cho khoa học, còn các giáo viên thì nói trẻ nhỏ không thể làm được điều đó. Nhưng dù chuyện gì thì... Chúng tôi đã làm điều đó. Đúng không? Tất nhiên rồi.
So, here are some of the questions. I put them in small print so you wouldn't bother reading it. Point is that five of the questions that the kids came up with were actually the basis of science publication the last five to 15 years. Right? So they were asking questions that were significant to expert scientists.
Đây là một số những câu hỏi. Tôi viết nhỏ lại, như vậy quý vị sẽ không mất công mà đọc nó. Vấn đề là 5 trong số các câu hỏi do lũ trẻ nghĩ ra hoá ra chính là nền tảng của những công bố khoa học trong khoảng 5 đến 15 năm gần đây. Phải vậy không? Như vậy lũ trẻ nêu lên những câu hỏi đã có tầm quan trọng đối với các chuyên gia khoa học.
Now here, I want to share the stage with someone quite special. Right? She was one of the young people who was involved in this study, and she's now one of the youngest published scientists in the world. Right? She will now, once she comes onto stage, will be the youngest person to ever speak at TED. Right? Now, science and asking questions is about courage. Now she is the personification of courage, because she's going to stand up here and talk to you all. So Amy, would you please come up? (Applause) (Applause) So Amy's going to help me tell the story of what we call the Blackawton Bees Project, and first she's going to tell you the question that they came up with. So go ahead, Amy.
Giờ đây, tôi muốn chia sẻ với sân khấu với một người khá đặc biệt. Được không? Cô bé là một trong những bạn trẻ đã tham gia vào nghiên cứu này và hiện là một trong những nhà khoa học trẻ nhất có tên tuổi trên thế giới. Đúng không? Và lúc cô bé bước lên sân khấu sẽ là lúc cô bé trở thành người trẻ tuổi nhất đã từng diễn thuyết ở TED. Phải vậy không? Ngày nay, khoa học và việc đặt câu hỏi là vấn đề can đảm. Giờ đây cô bé là một ví dụ điển hình cho sự can đảm, bởi cô bé sẽ đứng ở đây và nói chuyện với tất cả chúng ta. Amy ơi, cháu bước ra đây được không? (Tiếng vỗ tay) (Tiếng vỗ tay) Vậy, Amy sẽ giúp tôi kể câu chuyện mà chúng tôi gọi là Dự án Blackawton Bees, và trước hết cô bé sẽ kể cho bạn về các câu hỏi mà chúng tôi đã đặt ra. Nào xin mời, Amy.
Amy O'Toole: Thank you, Beau. We thought that it was easy to see the link between humans and apes in the way that we think, because we look alike. But we wondered if there's a possible link with other animals. It'd be amazing if humans and bees thought similar, since they seem so different from us. So we asked if humans and bees might solve complex problems in the same way. Really, we wanted to know if bees can also adapt themselves to new situations using previously learned rules and conditions. So what if bees can think like us? Well, it'd be amazing, since we're talking about an insect with only one million brain cells. But it actually makes a lot of sense they should, because bees, like us, can recognize a good flower regardless of the time of day, the light, the weather, or from any angle they approach it from. (Applause)
Amy O`Toole: Cảm ơn, Beau. Chúng tai đã nghĩ rằng rất dễ dàng để thấy mối liên quan giữa con người và vượn người theo cái cách mà chúng ta nghĩ, bởi chúng ta trông giống nhau. Nhưng chúng tôi băn khoăn liệu có thể có mối liên quan nào với các loài vật khác nữa. Sẽ là rất thú vị nếu con người và con ong suy nghĩ giống nhau, bởi ong có vẻ rất khác biệt với người. Vậy đó, chúng tôi thắc mắc liệu con người và con ong có thế giải quyết những vấn đề phức tạp theo cùng một cách không. Thực sự đó, chúng tôi đã muốn biết nếu ong có thể tự chúng thích nghi với những tình huống mới sử dụng đúng những quy luật và điều kiện mà chúng đã học trước đó Như vậy liệu ong có thể suy nghĩ giống chúng ta? Đó thực sự là một điều đáng ngạc nhiên, bởi chúng ta đang nói về một loại côn trùng với chỉ một nghìn tế bào não. Nhưng điều đó thực ra lại rất hợp lý đó, bởi ong, giống với chúng ta, có thể nhận ra một bông hoa tốt bất chấp thời gian trong ngày, ánh sáng, thời tiết, hay từ khía cạnh nào mà chúng tiếp cận bông hoa. (Vỗ tay)
BL: So the next step was to design an experiment, which is a game. So the kids went off and they designed this experiment, and so -- well, game -- and so, Amy, can you tell us what the game was, and the puzzle that you set the bees?
BL: Bước tiếp theo là thiết kế một thực nghiệm, là một trò chơi. Và bọn trẻ đã ra tay và thiết kế thực nghiệm này, và vậy đấy -- một trò chơi -- và như thế, Amy, cháu có thể nói cho chúng tôi nghe trò chơi đó là gì không, và tình huống phức tạp các cháu đã tạo ra cho lũ ong?
AO: The puzzle we came up with was an if-then rule. We asked the bees to learn not just to go to a certain color, but to a certain color flower only when it's in a certain pattern. They were only rewarded if they went to the yellow flowers if the yellow flowers were surrounded by the blue, or if the blue flowers were surrounded by the yellow. Now there's a number of different rules the bees can learn to solve this puzzle. The interesting question is, which? What was really exciting about this project was we, and Beau, had no idea whether it would work. It was completely new, and no one had done it before, including adults. (Laughter)
AO: Tình huống phức tạp chúng tôi đã nghĩ ra là một quy luật nếu-thì. Chúng tôi yêu cầu lũ ong không chỉ học cách tìm đến một màu xác định, mà phải tới một bông hoa cụ thể nữa trong một sơ đồ xác định. Lũ ong chỉ được thưởng nếu chúng bay tới những bông hoa màu vàng, nếu những bông hoa màu vàng bị bao quanh bởi màu xanh da trời hoặc những bông hoa màu xanh da trời được bao quanh bởi những bông màu vàng. Hàng loạt các luật lệ khác nhau mà ong có thể học để giải quyết tình huống này. Câu hỏi thú vị là, bông nào? Điều thực sự lý thú về dự án này là chúng tôi với Beau, không hế biết liệu nó sẽ thành công không. Hoàn toàn mới mẻ, và chưa ai từng làm trước đó, bao gồm cả người lớn.(Tiếng cười)
BL: Including the teachers, and that was really hard for the teachers. It's easy for a scientist to go in and not have a clue what he's doing, because that's what we do in the lab, but for a teacher not to know what's going to happen at the end of the day -- so much of the credit goes to Dave Strudwick, who was the collaborator on this project. Okay? So I'm not going to go through the whole details of the study because actually you can read about it, but the next step is observation. So here are some of the students doing the observations. They're recording the data of where the bees fly.
BL: Bao gồm cả các giáo viên, và điều đó thực sự khó xử cho các giáo viên, rất dễ dàng đối với một nhà khoa học bắt tay làm mà không hề chắc anh ta đang làm gì, bởi đó là những gì chúng tôi làm trong phòng thí nghiệm, nhưng đối với một giáo viên không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào cuối ngày thì... vậy nên, gửi sự trân trọng tới Dave Strudwick, người cộng tác với dự án này. Nhé? Tôi sẽ không đi vào tất cả chi tiết của nghiên cứu bởi bạn có thể đọc về nó, nhưng bước tiếp theo là quan sát. Đây là một số học sinh thực hiện các công việc quan sát. Bọn trẻ ghi lại các dữ liệu nơi mà bầy ong bay.
(Video) Dave Strudwick: So what we're going to do —Student: 5C.
(Trong video) Dave Strudwick : Chúng ta sắp làm chuyện gì nào -- Học sinh: 5C
Dave Strudwick: Is she still going up here?Student: Yeah.
Dave: Con ong ấy vẫn bay cao trên đây à? Học sinh: Dạ đúng.
Dave Strudwick: So you keep track of each.Student: Henry, can you help me here?
Dave: Vậy các em ghi lại từng con một nhé. Học sinh: Henry, anh có thể giúp em ở đây không?
BL: "Can you help me, Henry?" What good scientist says that, right?
BL: "Giúp tôi được không, Henry?" - đó là điều một nhà khoa học lỗi lạc nói, đúng không?
Student: There's two up there. And three in here.
Học sinh: Có 2 con ở trên này ạ. Và 3 con ở đây.
BL: Right? So we've got our observations. We've got our data. They do the simple mathematics, averaging, etc., etc. And now we want to share. That's the next step. So we're going to write this up and try to submit this for publication. Right? So we have to write it up. So we go, of course, to the pub. All right? (Laughter) The one on the left is mine, okay? (Laughter)
BL: Đúng không? Vậy chúng tôi có những nhà quan sát của chúng tôi. Chúng tôi có dữ liệu. Bọn trẻ thực thi một vài phép toán đơn giản, tính trung bình cộng, vân vân và vân vân. Và giờ đây chúng tôi muốn chia sẻ. Đó là bước tiếp theo. Như vậy, chúng tôi sẽ viết ra và gửi đi để xuất bản. Đúng không? Chúng tôi phải viết chúng xuống. Chúng tôi đi, dĩ nhiên, đi đến quán rượu. Được chứ? (Cười rộ) Đứa trẻ ở bên trái là con tôi, được chứ? (Tiếng cười)
Now, I tell them, a paper has four different sections: an introduction, a methods, a results, a discussion. The introduction says, what's the question and why? Methods, what did you do? Results, what was the observation? And the discussion is, who cares? Right? That's a science paper, basically. (Laughter)
Bấy giờ, tôi nói với lũ trẻ, một bài viết có bốn phần khác nhau: phần mở đầu, phần phương pháp, kết quả, phần thảo luận. Phần mở đầu nói lên: câu hỏi đặt ra là gì, và tại sao? Các phương pháp, chúng ta đã làm gì? Kết quả, và dữ liệu quan sát được là gì? Và phần thảo luận là, ai quan tâm làm gì? Đúng không? Cơ bản mà nói, đó là tất cả của một bài viết khoa học. (Tiếng cười)
So the kids give me the words, right? I put it into a narrative, which means that this paper is written in kidspeak. It's not written by me. It's written by Amy and the other students in the class. As a consequence, this science paper begins, "Once upon a time ... " (Laughter) The results section, it says: "Training phase, the puzzle ... duh duh duuuuuhhh." Right? (Laughter) And the methods, it says, "Then we put the bees into the fridge (and made bee pie)," smiley face. Right? (Laughter) This is a science paper. We're going to try to get it published. So here's the title page. We have a number of authors there. All the ones in bold are eight to 10 years old. The first author is Blackawton Primary School, because if it were ever referenced, it would be "Blackawton et al," and not one individual. So we submit it to a public access journal, and it says this. It said many things, but it said this. "I'm afraid the paper fails our initial quality control checks in several different ways." (Laughter) In other words, it starts off "once upon a time," the figures are in crayon, etc. (Laughter)
Như thế, lũ trẻ cung cấp các từ ngữ cho tôi, đúng không? Và tôi tường thuật lại điều đó có nghĩa tài liệu này được viết bởi ngôn ngữ trẻ thơ. Tôi không viết. Nó được viết bởi Amy và các học sinh khác trong lớp. Vậy nên hệ quả là, tài liệu khoa học này bắt đầu bằng: "Ngày xửa ngày xưa.." (Cười rộ) Phần kết quả được viết: "Giai đoạn huấn luyện, câu đố ...duh duh duuuuuhhh". Đúng không? (Tiếng cười) Và phần phương pháp được viết: "Sau đó chúng tôi đặt lũ ong vào tủ lạnh (và làm bánh pie ong)" - mặt cười. Đúng không? (Tiếng cười) Đây là một tài liệu khoa học. Chúng tôi sẽ cố gắng để nó được xuất bản. Đây là trang đầu. Chúng tôi có một số lượng các tác giả đáng kể. Tất cả tên được tô đậm là những đứa trẻ từ 8-10 tuổi. Tác giả đầu tiên là Trường Tiểu Học Blackawton, vì nếu như tài liệu này được đưa vào danh sách tham khảo, nó sẽ là "Blackawton và cộng sự" chứ không phải cá nhân nào hết. Như vậy chúng tôi gửi nó đến một tạp chí phổ thông, và tạp chí đó nói vầy. Tạp chí đó nói rất nhiều, nhưng nói thế này. "Tôi lo ngại rằng tài liệu này không đạt từ bước đầu tiên theo quy chuẩn chất lượng của chúng tôi, dù kiểm tra cách nào đi nữa". (Cười rộ) Nói theo một cách khác, tài liệu này không đạt ngay đoạn mở đầu: "Ngày xửa ngày xưa", rồi những biểu đồ vẽ bằng phấn màu, vân vân. (Cười rộ)
So we said, we'll get it reviewed. So I sent it to Dale Purves, who is at the National Academy of Science, one of the leading neuroscientists in the world, and he says, "This is the most original science paper I have ever read" — (Laughter) — "and it certainly deserves wide exposure." Larry Maloney, expert in vision, says, "The paper is magnificent. The work would be publishable if done by adults."
Do vậy chúng tôi nói, chúng tôi sẽ xem lại. Rồi tôi gửi nó cho Dale Purves, người làm viêc tại Viện Khoa Học Quốc Gia (National Academy of Science), một trong những nhà thần kinh học hàng đầu thế giới, và ông nói: "Đây là tài liệu khoa học nguyên bản nhất mà tôi đã từng đọc" -- (Tiếng cười) -- "và nó xứng đáng được quảng bá rộng rãi". Larry Maloneny, chuyên gia về thị giác, nói: "Tài liệu này quá ấn tượng". Công trình nghiên cứu này có thể được xuất bản nếu được thực hiện bởi người lớn".
So what did we do? We send it back to the editor. They say no. So we asked Larry and Natalie Hempel to write a commentary situating the findings for scientists, right, putting in the references, and we submit it to Biology Letters. And there, it was reviewed by five independent referees, and it was published. Okay? (Applause) (Applause)
Vậy chúng tôi đã làm gì? Chúng tôi đã gửi ngược tài liệu này đến biên tập viên. Họ nói không. Cho nên chúng tôi nhờ Larry và Natalie Hempel viết một lời dẫn giải tình huống hóa sự tìm ra của các nhà khoa học, đặt vào trong phần tham khảo, và chúng tôi gửi nó cho Biology Letters. Và như vậy đấy, tài liệu đã được đánh giá độc lập bởi năm trọng tài và nó đã được xuất bản. (Vỗ tay) (Vỗ tay)
It took four months to do the science, two years to get it published. (Laughter) Typical science, actually, right? So this makes Amy and her friends the youngest published scientists in the world. What was the feedback like? Well, it was published two days before Christmas, downloaded 30,000 times in the first day, right? It was the Editors' Choice in Science, which is a top science magazine. It's forever freely accessible by Biology Letters. It's the only paper that will ever be freely accessible by this journal. Last year, it was the second-most downloaded paper by Biology Letters, and the feedback from not just scientists and teachers but the public as well. And I'll just read one.
Mất bốn tháng để thực hiện tài liệu khoa học này, và mất hai năm để được xuất bản. (Cười rộ) Kiểu khoa học điển hình, thực sự thế, đúng không? Như vậy, nó đã làm Amy và các bạn của cô bé trở thành những nhà khoa học trẻ tuổi nhất thế giới được được biết đến. Những phản hồi như thế nào? Tài liệu đã được xuất bản hai ngày trước Giáng Sinh, được tải 30,000 lần trong ngày đầu tiên, đúng không? Nó là tạp chí "Editor`s Choice in Scence", một tạp chí khoa học hàng đầu. Nó là tài liệu được truy cập vĩnh viễn miễn phí trên Biology Letters. Nó là tài liệu duy nhất được truy cập vĩnh viễn miễn phí của tạp chí này. Năm vừa rồi, nó là tài liệu được tải về nhiều thứ hai trên Biology Letters. và phản hồi không chỉ từ phía các nhà khoa học và các giáo viên mà còn từ dân chúng nữa. Và tôi chỉ đọc một trong số đó.
"I have read 'Blackawton Bees' recently. I don't have words to explain exactly how I am feeling right now. What you guys have done is real, true and amazing. Curiosity, interest, innocence and zeal are the most basic and most important things to do science. Who else can have these qualities more than children? Please congratulate your children's team from my side."
"Gần đây tôi vừa đọc 'Blackawton Bees'. Không có từ ngữ nào để giải thích chính xác được cảm giác tôi ngay lúc này. Điều mà các bạn làm là thật, đúng đắn và đáng kinh ngạc. Sự tò mò. thích thú, trong sáng và sự nhiệt huyết là những điều cơ bản nhất và quan trọng nhất để làm khoa học. Còn ai khác có thể đủ điều kiện hơn trẻ thơ? Xin hãy gửi lời chúc mừng của tôi tới bọn trẻ của ông."
So I'd like to conclude with a physical metaphor. Can I do it on you? (Laughter) Oh yeah, yeah, yeah, come on. Yeah yeah. Okay. Now, science is about taking risks, so this is an incredible risk, right? (Laughter) For me, not for him. Right? Because we've only done this once before. (Laughter) And you like technology, right?
Vậy nên, tôi xin phép được kết luận với một phép ẩn dụ mang tính chất vật lý Tôi có thể làm điều đó với bạn được không? (Tiếng cười) Oh yeah, yeah, yeah, đi nào. Yeah yeah. Okay. Bây giờ, khoa học là mạo hiểm, vậy đây là một sự mạo hiểm không thể tin nổi, đúng không? (Tiếng cười) Với tôi, chứ không phải với ông ấy. Đúng không? Bởi chúng tôi mới làm điều này một lần trước đây. (Tiếng cười) Và ông thích công nghệ đúng không?
Shimon Schocken: Right, but I like myself.
Shimon Schocken: Đúng, nhưng tôi yêu bản thân thôi.
BL: This is the epitome of technology. Right. Okay. Now ... (Laughter) Okay. (Laughter)
BL: Đây là một mô hình thu nhỏ của công nghệ. Đúng chứ? Bây giờ... (Tiếng cười) Được rồi.. (Tiếng cười)
Now, we're going to do a little demonstration, right? You have to close your eyes, and you have to point where you hear me clapping. All right?
Bây giờ, chúng ta sẽ làm một chứng minh nho nhỏ, nhé? Ông phải nhắm mắt lại, và chỉ tay về hướng mà ông nghe thấy tôi vỗ tay. Được không?
(Clapping)
(Tiếng vỗ tay)
(Clapping)
(Tiếng vỗ tay)
Okay, how about if everyone over there shouts. One, two, three?
Được rồi, hay bây giờ tất cả cùng hô to 1, 2, 3?
Audience: (Shouts) (Laughter)
Khán giả: (Tiếng hô) (Tiếng cười)
(Shouts) (Laughter)
(Tiếng hô) (Tiếng cười)
Brilliant. Now, open your eyes. We'll do it one more time. Everyone over there shout. (Shouts) Where's the sound coming from? (Laughter) (Applause)
Quá tuyệt! Bây giờ, ông mở mắt ra. Chúng ta sẽ làm lại một lần nữa Tất cả mọi người ở hướng này hô lên đi. (Tiếng hô) Âm thành từ đâu dội tới? (Tiếng cười) (Tiếng vỗ tay)
Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn ông rất nhiều. (Tiếng vỗ tay)
What's the point? The point is what science does for us. Right? We normally walk through life responding, but if we ever want to do anything different, we have to step into uncertainty. When he opened his eyes, he was able to see the world in a new way. That's what science offers us. It offers the possibility to step on uncertainty through the process of play, right?
Vấn đế ở đây là gì? Vấn đề là khoa học làm gì cho chúng ta. Đúng không? Chúng ta thường trải qua những phản xạ đời thường nhưng nếu chúng ta có lúc nào đó muốn làm điều gì đó khác biệt, chúng ta phải bước vào sự không chắc chắn. Khi ông ấy mở mắt ra, ông ấy đã có thể thấy thế giới khác đi. Đó là điều mà khoa học trao cho chúng ta. Nó đề nghị một trách nhiệm bước vào sự không chắc chắn thông qua quá trình vui chơi, đúng không?
Now, true science education I think should be about giving people a voice and enabling to express that voice, so I've asked Amy to be the last voice in this short story. So, Amy?
Giờ đây, giáo dục khoa học thực chất, tôi nghĩ, nên hướng đến cho mọi người có quyền lên tiếng và cho phép họ thể hiện tiếng nói đó vậy nên tôi vừa đề nghị Amy hãy là tiếng nói cuối cùng trong bài thuyết trình ngắn này. Mời Amy?
AO: This project was really exciting for me, because it brought the process of discovery to life, and it showed me that anyone, and I mean anyone, has the potential to discover something new, and that a small question can lead into a big discovery. Changing the way a person thinks about something can be easy or hard. It all depends on the way the person feels about change. But changing the way I thought about science was surprisingly easy. Once we played the games and then started to think about the puzzle, I then realized that science isn't just a boring subject, and that anyone can discover something new. You just need an opportunity. My opportunity came in the form of Beau, and the Blackawton Bee Project.
AO: Dự án này thực sự rất thú vị với cháu bởi, nó mang đến quá trình khám phá cuộc sống và nó chỉ cho cháu thấy rằng bất cứ ai, và ý của cháu là BẤT CỨ AI cũng có một tiềm năng để khám phá ra điều mới mẻ, và một câu hỏi nhỏ có thể dẫn đến những khám phá vĩ đại. Thay đổi cách một người nghĩ về một điều gì đó có thể dễ dàng hoặc khó khăn. Tất cả phụ thuộc vào cách mà người đó cảm nhận về sự thay đổi. Nhưng thay đổi mà cháu nghĩ về khoa học lại dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên. Khi chơi những trò chơi và sau đó chúng cháu bắt đầu suy ngẫm về những câu hỏi, sau đó cháu nhận ra rằng khoa học không phải là một môn học nhàm chán và rằng bất cứ ai cũng có thể khám phá điều mới lạ. Mỗi chúng ta chỉ cần một cơ hội. Cơ hội của cháu đã đến theo cách của Beau, và Dự án Blackawton Bee.
Thank you.BL: Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn BL: Cảm ơn thật nhiều. (TIếng vỗ tay)
(Applause)
(TIếng vỗ tay)