(Applause)
(Vỗ tay)
(Applause)
(Vỗ tay)
I am a papercutter. (Laughter) I cut stories. So my process is very straightforward. I take a piece of paper, I visualize my story, sometimes I sketch, sometimes I don't. And as my image is already inside the paper, I just have to remove what's not from that story. So I didn't come to papercutting in a straight line. In fact, I see it more as a spiral.
Tôi là người cắt giấy. (Cười) Tôi cắt để tạo nên những câu chuyện. Vì thế nên quá trình làm việc của tôi rất chân phương. Tôi lấy một mẩu giấy, mường tượng ra một câu chuyện, thỉnh thoảng tôi phác thảo vài nét, nhưng cũng có lúc tôi không cần phải làm việc này. Và vì những gì tôi tưởng tượng đã thật sự hiển hiện trên giấy, nên tôi chỉ cần cắt bỏ đi những thứ rườm rà, không liên quan đến mẩu chuyện. Vậy nên tôi không cắt giấy theo một đường thẳng. Thật ra, Tôi xem nó như một đường trôn ốc.
I was not born with a blade in my hand. And I don't remember papercutting as a child. As a teenager, I was sketching, drawing, and I wanted to be an artist. But I was also a rebel. And I left everything and went for a long series of odd jobs. So among them, I have been a shepherdess, a truck driver, a factory worker, a cleaning lady. I worked in tourism for one year in Mexico, one year in Egypt. I moved for two years in Taiwan. And then I settled in New York where I became a tour guide. And I still worked as a tour leader, traveled back and forth in China, Tibet and Central Asia.
Tôi không được sinh ra với một chiếc dao gắn trên tay Và tôi không nhớ là mình đã từng cắt giấy khi còn nhỏ. Khi đến tuổi thiếu niên, Tôi phác họa và vẽ, Tôi mơ ước trở thành một họa sĩ. Nhưng đó cũng là thời điểm tôi trở nên nổi loạn. Tôi từ bỏ tất cả mọi thứ và làm nhiều nghề quái lạ. Trong số đó, Tôi từng làm người chăm sóc cừu, người lái xe tải, công nhân phân xưởng, nhân viên lau dọn, Tôi làm trong ngành du lịch khoảng 1 năm ở Mexico và ở Ai Cập một năm. Tôi chuyển đến sống trong hai năm ở Đài Loan. Cuối cùng tôi dừng chân ở New York và trở thành hướng dẫn viên du lịch ở đấy. Và tôi vẫn làm việc với tư cách người dẫn đầu tour du lịch, tôi di chuyển như con thoi giữa Trung Quốc, Tây Tạng và Trung Á.
So of course, it took time, and I was nearly 40, and I decided it's time to start as an artist. (Applause) I chose papercutting because paper is cheap, it's light, and you can use it in a lot of different ways. And I chose the language of silhouette because graphically it's very efficient. And it's also just getting to the essential of things. So the word "silhouette" comes from a minister of finance, Etienne de Silhouette. And he slashed so many budgets that people said they couldn't afford paintings anymore, and they needed to have their portrait "a la silhouette." (Laughter) So I made series of images, cuttings, and I assembled them in portfolios. And people told me -- like these 36 views of the Empire State building -- they told me, "You're making artist books."
Đương nhiên những việc này tốn rất nhiều thời gian, cho đến khi tôi đã gần bước sang tuổi 40, tôi quyết định rằng đã đến thời điểm để bắt đầu công việc nghệ thuật của mình. (Vỗ tay) Tôi đã chọn việc cắt giấy bởi vì giấy có giá thành thấp, nhẹ, và ta có thể biến hóa nó theo nhiều cách khác nhau. Tôi đã chọn thể hiện qua ngôn ngữ của những cái bóng bởi vì nó rất hiệu quả về mặt hình ảnh. Và nó cũng thể hiện thứ cốt yếu nhất của mọi điều. Từ "bóng" -- "Silhouette" bắt nguồn từ tên một vị bộ trưởng tài chính tên là Etienne de Silhouette. Ông ta đã mạnh tay cắt giảm ngân sách đến nỗi mà mọi người không còn khả năng mua được những bức vẽ được nữa, và họ cần có những bức chân dung cho riêng mình "a la silhouette." (Cười) Vì thế tôi đã tạo nên một chuỗi hình ảnh với những đường cắt sửa, rồi sau đó ghép nối chúng lại với nhau Mọi người bảo tôi rằng chúng giống như 36 góc nhìn của tòa nhà Empire Sate họ nói với tôi rằng, "Cậu sẽ làm một cuốn sách về nghệ thuật chứ."
So artist books have a lot of definitions. They come in a lot of different shapes. But to me, they are fascinating objects to visually narrate a story. They can be with words or without words. And I have a passion for images and for words. I love pun and the relation to the unconscious. I love oddities of languages. And everywhere I lived, I learned the languages, but never mastered them. So I'm always looking for the false cognates or identical words in different languages.
Có rất nhiều định nghĩa về một cuốn sách nghệ thuật. Chúng được thiết kế với nhiều kiểu dáng khác nhau. Nhưng đối với tôi những cuốn sách nghệ thuật ấy vô cùng thú vị để có thể tường thuật lại một câu chuyện theo lối giàu hình tượng. Có thể dùng chữ nhưng cũng có thể không. Tôi có một niềm đam mê cháy bỏng đối với những bức vẽ và những con chữ. Tôi thích cách chơi chữ và sự liên hệ về mặt tiềm thức. Tôi yêu những điều kì lạ của ngôn ngữ. Ở bất cứ nơi đâu tôi cũng tìm tòi học những thứ ngôn ngữ được sử dụng ở đấy, nhưng chẳng bao giờ giỏi được. Vì vậy tôi luôn luôn tìm những từ có cùng gốc nhưng thực không phải vậy hoặc là những từ giống nhau giữa các ngôn ngữ.
So as you can guess, my mother tongue is French. And my daily language is English. So I did a series of work where it was identical words in French and in English. So one of these works is the "Spelling Spider." So the Spelling Spider is a cousin of the spelling bee. (Laughter) But it's much more connected to the Web. (Laughter) And this spider spins a bilingual alphabet. So you can read "architecture active" or "active architecture." So this spider goes through the whole alphabet with identical adjectives and substantives. So if you don't know one of these languages, it's instant learning.
Chắc các bạn cũng đoán được rằng ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi là tiếng Pháp. Còn ngôn ngữ tôi sử dụng hằng ngày là tiếng Anh. Vậy nên tôi đã bắt tay vào làm một chuỗi công việc về những từ giống nhau giữa tiếng Pháp và tiếng Anh. Một trong số đó chính là "Spelling Spider" Spelling Spider (chú nhện đánh vần) cùng họ hàng với từ spelling bee (chú ong đánh vần) (Cười) Nhưng liên quan đến Web nhiều hơn cả. (Cười) Và con nhện này dệt nên một bảng chữ cái song ngữ. Vì thế các bạn có thể đọc được từ "architecture active" hoặc "active architecture." (kiến trúc chủ động) Con nhện này lần lượt bò khắp bảng chữ cái tìm những tính từ và danh từ giống nhau Vì thế nếu như không biết những ngôn ngữ này bạn có thể học được ngay lập tức.
And one ancient form of the book is scrolls. So scrolls are very convenient, because you can create a large image on a very small table. So the unexpected consequences of that is that you only see one part of your image, so it makes a very freestyle architecture. And I'm making all those kinds of windows. So it's to look beyond the surface. It's to have a look at different worlds. And very often I've been an outsider. So I want to see how things work and what's happening. So each window is an image and is a world that I often revisit. And I revisit this world thinking about the image or cliché about what we want to do, and what are the words, colloquialisms, that we have with the expressions.
Một điều mang dáng dấp cổ xưa của cuốn sách này chính là những cuộn giấy. Chúng rất tiện lợi, vì bạn có thể tạo ra một bức tranh lớn trên một chiếc bàn nhỏ. Những kết quả không ngở đến của phương thức này chính là việc bạn chỉ có thể thấy một phần bức tranh của mình, do đó nó tạo nên một lối kiến trúc tự do. Và giờ thì tôi đang tạo ra các kiểu cửa sổ. Đừng chỉ nhìn riêng những gì được thể hiện ở bề mặt mà hãy quan sát nhiều thế giới riêng biệt. Tôi thường là một kẻ ngoài cuộc để nhìn xem mọi thứ vận hành như thế nào và điều gì đang diễn ra. Mỗi chiếc cửa sổ kia là một bức tranh là cả thế giới mà tôi thường xuyên ghé thăm nhiều lần. Và mỗi khi hòa mình vào thế giới này ngẫm nghĩ về bức tranh hay những từ nhàm chán miêu tả dự định trong tương lai, và những từ thường được sử dụng trong đời sống hằng ngày, mà chúng ta thường dùng với cảm xúc.
It's all if. So what if we were living in balloon houses? It would make a very uplifting world. And we would leave a very low footprint on the planet. It would be so light. So sometimes I view from the inside, like EgoCentriCity and the inner circles. Sometimes it's a global view, to see our common roots and how we can use them to catch dreams. And we can use them also as a safety net.
Đó chính là tất cả những gì có thể. Điều gì sẽ xảy ra nếu như chúng ta đang sống trong những ngôi nhà bằng bong bóng nhỉ? Hẳn sẽ là một thế giới bay bổng, bồng bềnh trong không gian đây. Và chúng ta hầu như sẽ rất ít chạm chân đến hành tinh này. Sẽ nhẹ tênh. Vì thế thỉnh thoảng tôi ở trong ngắm nhìn ra xa mọi vật, chẳng hạn như thành phố EgoCentri và những vòng tuần hoàn khép kín. Đôi khi đấy chính là một cái nhìn mang tính toàn cầu, về những cội nguồn chung của chúng ta và việc làm thế nào để sử dụng chúng mà đạt được ước mơ. Ta cũng có thể xem chúng nhưng một tổ ấm an bình.
And my inspirations are very eclectic. I'm influenced by everything I read, everything I see. I have some stories that are humorous, like "Dead Beats." (Laughter) Other ones are historical. Here it's "CandyCity." It's a non-sugar-coated history of sugar. It goes from slave trade to over-consumption of sugar with some sweet moments in between. And sometimes I have an emotional response to news, such as the 2010 Haitian earthquake. Other times, it's not even my stories. People tell me their lives, their memories, their aspirations, and I create a mindscape. I channel their history [so that] they have a place to go back to look at their life and its possibilities. I call them Freudian cities.
Và nguồn cảm hứng của tôi vô cùng đa dạng. Tôi ảnh hưởng bởi những gì mình đọc, những thứ mình thấy. Tôi có vài câu chuyện cười, ví dụ như "Những nhịp đập câm lặng." (Cười) Còn lại thuộc thể loại lịch sử. Và đây là "Thành phố Kẹo Ngọt." Nó không phải là một lịch sử được xoa dịu bởi đường ngọt. Đây là câu chuyện về việc mua bán nô lệ cho đến việc tiêu thu đường quá mức với những khoảnh khắc ngọt ngào đan xen. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy xúc động trước một số mẩu tin tức, chẳng hạn như tin về trận động đất ở Haiti vào năm 2010. Cũng có khi lại chẳng liên quan đến những câu chuyện của riêng tôi. Mọi người tâm sự với tôi về cuộc sống của họ, về những kỷ niệm, những khát khao cháy bỏng, và tôi mường tượng ra một cảnh quan tâm trí. Tôi phân luồng câu chuyện quá khứ của họ để họ sẽ có một nơi để quay trở lại để quan sát cuộc sống của họ và những khả năng có thể xảy ra. Tôi gọi chúng là những thành phố của Freud.
I cannot speak for all my images, so I'll just go through a few of my worlds just with the title. "ModiCity." "ElectriCity." "MAD Growth on Columbus Circle." "ReefCity." "A Web of Time." "Chaos City." "Daily Battles." "FeliCity." "Floating Islands." And at one point, I had to do "The Whole Nine Yards." So it's actually a papercut that's nine yards long. (Laughter) So in life and in papercutting, everything is connected. One story leads to another. I was also interested in the physicality of this format, because you have to walk to see it.
Tôi không thể thay mặt phát ngôn cho tất cả những bức tranh của mình, vì vậy tôi sẽ chỉ lướt qua một vài thế giới được đặt tên. Thành Phố Modi. Thành phố điện năng. Sự tăng trưởng điên loạn trong vòng tuần hoàn Colombus. Thành phố san hô. Mạng lưới thời gian. Thành phố hỗn loạn. Những trận chiến thường ngày. Thành phố hạnh phúc" Quần đảo nổi. Về một khía cạnh, Tôi đã phải hoàn thành" Cả 9 yards." Thật sự nó đúng là một mẩu giấy được cắt dài chín yards. (Cười) Trong cuộc sống cũng như trong những mẩu giấy, mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau. Câu chuyện này dẫn đến câu chuyện khác. Bên cạnh đó tôi cũng rất hứng thú với sức mạnh thể chất của loại hình này, bởi vì bạn phải di chuyển nếu muốn thấy được nó.
And parallel to my cutting is my running. I started with small images, I started with a few miles. Larger images, I started to run marathons. Then I went to run 50K, then 60K. Then I ran 50 miles -- ultramarathons. And I still feel I'm running, it's just the training to become a long-distance papercutter.
Và song song với công việc cắt giấy tôi còn phải chạy. Tôi bắt đầu từ những bức vẽ nhỏ, với vài dặm ngắn. Bức tranh lớn hơn thì tôi như phải chạy marathon vậy Sau đó tôi đã chạy được 50K, rồi 60K. Rồi 50 dặm - hơn cả marathon. Và tôi vẫn có cảm giác như mình đang chạy, Đó chính là sự rèn luyện để có thể trở thành một vận động viên cắt giấy đường dài
(Laughter)
(Cười)
And running gives me a lot of energy. Here is a three-week papercutting marathon at the Museum of Arts and Design in New York City. The result is "Hells and Heavens." It's two panels 13 ft. high. They were installed in the museum on two floors, but in fact, it's a continuous image. And I call it "Hells and Heavens" because it's daily hells and daily heavens. There is no border in between. Some people are born in hells, and against all odds, they make it to heavens. Other people make the opposite trip. That's the border. You have sweatshops in hells. You have people renting their wings in the heavens. And then you have all those individual stories where sometimes we even have the same action, and the result puts you in hells or in heavens. So the whole "Hells and Heavens" is about free will and determinism.
Việc chạy như vậy giúp tôi nạp nhiều năng lượng. Đây là một cuộc chạy marathon để cắt giấy trong vòng 3 tuần ở bảo tàng nghệ thuật và thiết kế tại thành phố New York. Kết quả là "Địa ngục và Thiên đường." Nó bao gồm hai mảnh giấy cao 13 ft. Được đặt trên tầng hai của bảo tàng, nhưng thật ra nó là một bức vẽ chung nhất. Tôi gọi nó là "Địa ngục và Thiên đường" vì sự luân phiên theo ngày của chúng. Không tồn tại lằn ranh phân chia giữa hiên đường và địa ngục. Có những người sinh ra từ địa ngục, và đấu tranh lại tất cả, họ vươn đến thiên đàng. Nhưng lại có những kẻ thực hiện môt chuyến du hành đối lập. Đó chính là ranh giới. Dưới địa ngục bạn thấy sự bóc lột lao động Trên thiên đường bạn thấy những người thuê đôi cánh để đeo trên vai. Và rồi bạn có tất cả những câu chuyện riêng tư này nơi mà ta đôi khi hành xử giống nhau, và kết quả mang lại sẽ đưa ta lên thiên đàng hay vùi sâu dưới địa ngục. Vì thế "Địa ngục và Thiên đường" kể về ý chí tự do và về sự ràng buộc của số mệnh.
And in papercutting, you have the drawing as the structure itself. So you can take it off the wall. Here it's an artist book installation called "Identity Project." It's not autobiographical identities. They are more our social identities. And then you can just walk behind them and try them on. So it's like the different layers of what we are made of and what we present to the world as an identity.
Và thông qua việc tạo hình với giấy, bạn có được cả bức vẽ và cấu trúc của nó. Vì thế bạn có thể tháo nó khỏi tường. Đây là một cuốn sách nghệ thuật được gọi là "Dự án nhận dạng." Không phải là về những đặc điểm cá nhân. Mà có phần nghiêng về xã hội hơn. Bạn chỉ việc đứng phía sau và khoác lên. Nó giống như bao gồm nhiều lớp khác nhau về nguồn gốc của chúng ta và những gì mà ta mang đến thế giới này là một nét đặc trưng riêng.
That's another artist book project. In fact, in the picture, you have two of them. It's one I'm wearing and one that's on exhibition at the Center for Books Arts in New York City. Why do I call it a book? It's called "Fashion Statement," and there are quotes about fashion, so you can read it, and also, because the definition of artist book is very generous. So artist books, you take them off the wall. You take them for a walk. You can also install them as public art. Here it's in Scottsdale, Arizona, and it's called "Floating Memories." So it's regional memories, and they are just randomly moved by the wind.
Đó chính là một dự án sách nghệ thuật khác. Thực tế, hai thứ này bao gồm trong một bức tranh. Giống như cái tôi đang mặc và cái đang được triển lãm tại trung tâm sách nghệ thuật ở thành phố New York Tại sao tôi lại gọi nó là một cuốn sách? "Bản tuyên bố về thời trang," có những lời trích dẫn khác nhau về thời trang, vậy nên bạn có thể đọc, và cũng có thể, vì định nghĩa về sách nghệ thuật là muôn hình muôn vẻ. Vì thế bạn dỡ những cuốn sách nghệ thuật khỏi tường. Bạn mặc nó đi dạo. Bạn cũng có thể giới thiệu loại hình nghệ thuật này đến với công chúng. Đây là ở Scottsdale, Arizona, nó được gọi là "Những ký ức nổi." là những miền ký ức và ngẫu nhiên lay động bởi gió.
I love public art. And I entered competitions for a long time. After eight years of rejection, I was thrilled to get my first commission with the Percent for Art in New York City. It was for a merger station for emergency workers and firemen. I made an artist book that's in stainless steel instead of paper. I called it "Working in the Same Direction." But I added weathervanes on both sides to show that they cover all directions. With public art, I could also make cut glass. Here it's faceted glass in the Bronx. And each time I make public art, I want something that's really relevant to the place it's installed. So for the subway in New York, I saw a correspondence between riding the subway and reading. It is travel in time, travel on time. And Bronx literature, it's all about Bronx writers and their stories.
Tôi yêu nghệ thuật công chúng. Và tôi đã tham gia nhiều cuộc thi trong một thời gian dài. Sau 8 năm thua cuộc, tôi hào hứng với lời đề nghị đầu tiên về việc thiết kế Phần trăm dành cho Nghệ Thuật ở New York. Nó được dùng làm một trạm nổi cho những công nhân và lính cứu hỏa cấp cứu. Tôi làm một cuốn sách nghệ thuật bằng thép không gỉ thay vì giấy. Tôi gọi nó là "Đồng chí hướng trong công việc." Nhưng tôi thêm chong chóng gió vào cả hai bên để thể hiện rằng họ bao quát tất cả phương hướng. Với nghệ thuật công chúng, Tôi cũng có thể cắt thủy tinh. Đây là mảnh thủy tinh nhẵn ở Bronx Và mỗi lần tôi thực hiện nghệ thuật trước công chúng, Tôi mong muốn gửi gắm một điều gì đấy thật sự liên quan tới nơi được dùng để thực hiện. Do đó đối với tàu điện ngầm ở NY, Tôi đã nhận thấy sự liên hệ giữa việc đi bằng tàu điện ngầm và việc đọc. Đó chính là du lịch kịp thời, du lịch đúng giờ. Nền văn học Bronx, tất cả đều về những nhà văn ở Bronx và tác phẩm của họ.
Another glass project is in a public library in San Jose, California. So I made a vegetable point of view of the growth of San Jose. So I started in the center with the acorn for the Ohlone Indian civilization. Then I have the fruit from Europe for the ranchers. And then the fruit of the world for Silicon Valley today. And it's still growing. So the technique, it's cut, sandblasted, etched and printed glass into architectural glass. And outside the library, I wanted to make a place to cultivate your mind. I took library material that had fruit in their title and I used them to make an orchard walk with these fruits of knowledge. I also planted the bibliotree. So it's a tree, and in its trunk you have the roots of languages. And it's all about international writing systems. And on the branches you have library material growing. You can also have function and form with public art. So in Aurora, Colorado it's a bench. But you have a bonus with this bench. Because if you sit a long time in summer in shorts, you will walk away with temporary branding of the story element on your thighs.
Một dự án về thủy tinh khác được trình diễn ở thư viện công cộng tại San Jose, Californa. Tôi đưa ra quan điểm về sự tăng trưởng thực vật ở San Jose. Tôi bắt đầu ở trung tâm thành phố trước với quả sồi đối với nền văn minh Ohlone Indian Sau đó tôi lấy trái từ châu Âu đem đến cho những chủ đồn điền. Và rồi là quả từ khắp thế giới cho thung lũng Silicon ngày nay Và nó vẫn đang mọc. về mặt kỹ thuật, nó được cắt, phun luồng cát, khắc và in thủy tinh thành những mảnh đậm chất kiến trúc. Bên ngoài thư viện, Tôi muốn tạo nên một nơi để khai thác tâm tư các bạn. Tôi lấy những cuốn sách trong thư viện có hình trái cây trên tựa đề và tôi dùng nó để làm khu vườn dành cho đi bộ với những quả ngọt kiến thức. Tôi trồng cả cây biblio. Đó là một cái cây, mà trong thân cây là những bộ rễ ngôn ngữ. Về hệ thống viết chữ quốc tế. Và trên những cành cây là những cuốn sách thư viện đang đâm chồi nảy lộc, ngày một lớn lên. Bạn cũng có thể dùng chức năng và hình thái trong nghệ thuật công chúng. Vậy nên ở Aurora, Colorado đó là một chiếc ghế dài. Nhưng chiếc ghế dài này có một điểm cộng. Vì nếu bạn ngả lưng một hồi lâu trên chiếc ghế dài này vào mùa hè, bạn sẽ đứng dậy đi và tạm khoe yếu tố câu chuyện trên hai bắp đùi của mình
(Laughter)
(Cười)
Another functional work, it's in the south side of Chicago for a subway station. And it's called "Seeds of the Future are Planted Today." It's a story about transformation and connections. So it acts as a screen to protect the rail and the commuter, and not to have objects falling on the rails. To be able to change fences and window guards into flowers, it's fantastic. And here I've been working for the last three years with a South Bronx developer to bring art to life to low-income buildings and affordable housing. So each building has its own personality. And sometimes it's about a legacy of the neighborhood, like in Morrisania, about the jazz history. And for other projects, like in Paris, it's about the name of the street. It's called Rue des Prairies -- Prairie Street. So I brought back the rabbit, the dragonfly, to stay in that street.
Một chức năng hữu dụng khác, nằm ở phía nam Chicago dành cho trạm ga điện ngầm. Tên là " Hạt giống ngày mai, gieo trồng hôm nay." Đó là một câu chuyện về việc chuyển giao và những mối liên kết. Nó có tác dụng như một tấm màn chắn để bảo vệ tàu và người di chuyển, và ngăn không cho vật lạ xuất hiện trên đường ray. Để có thể biến những hàng rào chắn và cửa sổ bảo vệ thành những bông hoa thật là tuyệt. Tôi đã làm việc ở đây trong vòng ba năm vừa qua với một nhà phát triển đến từ phía Nam Bronx để mang nghệ thuật đến với cuộc sống đến với những tòa nhà tiền lương thấp và những căn hộ vừa phải. Mỗi tòa nhà có nét đặc trưng riêng. Đôi khi là về di sản của khu dân cư, hay như ở Morrisania, chúng nói về lịch sử nhạc jazz. Những dự án khác, như cái ở Paris, là về tên một con đường. Gọi là Rue des Prairies -- có nghĩa là đường Đồng cỏ Tôi mang đến đó con thỏ, con chuồn chuồn, đặt trên con đường đấy
And in 2009, I was asked to make a poster to be placed in the subway cars in New York City for a year. So that was a very captive audience. And I wanted to give them an escape. I created "All Around Town." It is a papercutting, and then after, I added color on the computer. So I can call it techno-crafted.
và vào năm 2009 Tôi được yêu cầu thiết kế một tấm poster để trưng bày trong những chiếc xe điện ngầm ở New York trong một năm. việc đó quả như những thính giả phải lắng nghe miễn cưỡng. Và tôi muốn giải thoát cho họ Tôi tạo nên "Vòng quanh thị trấn." Tôi cắt giấy trước, sau đó tôi trang trí màu trên máy vi tính. Do đó tôi có thể gọi nó là sản phẩm kết hợp giữa thủ công và công nghệ.
And along the way, I'm kind of making papercuttings and adding other techniques. But the result is always to have stories. So the stories, they have a lot of possibilities. They have a lot of scenarios. I don't know the stories. I take images from our global imagination, from cliché, from things we are thinking about, from history. And everybody's a narrator, because everybody has a story to tell. But more important is everybody has to make a story to make sense of the world. And in all these universes, it's like imagination is the vehicle to be transported with, but the destination is our minds and how we can reconnect with the essential and with the magic. And it's what story cutting is all about.
Theo đó Tôi cắt giấy và sử dụng vài kỹ thuật khác. Nhưng kết quả chung nhất vẫn là tạo nên những câu chuyện. Những câu chuyện với nhiều khả năng tình tiết. với nhiều viễn cảnh phía trước. Tôi không biết những câu chuyện đó. Tôi lấy những bức vẽ từ sự tưởng tượng ở khắp nơi trên trái đất của chúng ta, từ những từ ngữ nhàm chán, những thứ ta luôn nghĩ đến, từ lịch sử. Mỗi người là một người kể chuyện, vì ai cũng có một câu chuyện để kể. Nhưng quan trọng hơn cả là mọi người phải làm khiến câu chuyện ấy trở nên hợp lý trong thế giới này. Và ở trong tất cả những vũ trụ này, sự tưởng tượng giống như một phương tiện dùng để truyền tải nhưng tâm hồn chúng ta chính là điểm đến và việc chúng ta có thể tái kết nối như thế nào với những điêu thiết yếu và thần kỳ. Đây chính là tất cả những gì liên quan đến việc cắt những câu chuyện.
(Applause)
(Vỗ tay)