My subject today is learning. And in that spirit, I want to spring on you all a pop quiz. Ready? When does learning begin? Now as you ponder that question, maybe you're thinking about the first day of preschool or kindergarten, the first time that kids are in a classroom with a teacher. Or maybe you've called to mind the toddler phase when children are learning how to walk and talk and use a fork. Maybe you've encountered the Zero-to-Three movement, which asserts that the most important years for learning are the earliest ones. And so your answer to my question would be: Learning begins at birth.
Hôm nay tôi xin trình bày về chủ đề nhận thức. Với chủ đề này, tôi có một câu đố. Các bạn đã sẵn sàng chưa? Quá trình nhận thức bắt đầu từ khi nào? Để trả lời câu hỏi này, có thể các bạn đang nghĩ về ngày đầu tiên ở trường tiểu học, hoặc nhà trẻ, lần đầu tiên mà trẻ con ở trong phòng học cùng giáo viên. Hoặc cũng có thể chúng ta liên tưởng đến lúc còn nhỏ khi trẻ con học đi, học nói và học cách dùng nĩa. Hoặc có thể chúng ta sẽ nghĩ ngay đến giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi, thời kỳ quan trọng nhất của quá trình nhận thức là những năm tháng đầu đời. Vì thế câu trả lời cho câu hỏi của tôi sẽ là: Việc học bắt đầu từ khi trẻ sinh ra.
Well today I want to present to you an idea that may be surprising and may even seem implausible, but which is supported by the latest evidence from psychology and biology. And that is that some of the most important learning we ever do happens before we're born, while we're still in the womb. Now I'm a science reporter. I write books and magazine articles. And I'm also a mother. And those two roles came together for me in a book that I wrote called "Origins." "Origins" is a report from the front lines of an exciting new field called fetal origins. Fetal origins is a scientific discipline that emerged just about two decades ago, and it's based on the theory that our health and well-being throughout our lives is crucially affected by the nine months we spend in the womb. Now this theory was of more than just intellectual interest to me. I was myself pregnant while I was doing the research for the book. And one of the most fascinating insights I took from this work is that we're all learning about the world even before we enter it.
Hôm nay tôi xin được trình bày cùng các bạn một chủ đề mà có thể sẽ làm cho các bạn ngạc nhiên và có vẻ sẽ làm các bạn hoài nghi. Nhưng vấn đề này đã được chứng minh qua các bằng chứng mới nhất từ ngành tâm lý học và cả ngành sinh học. Đó chính là: Một vài quá trình nhận thức quan trọng nhất của mỗi người đã diễn ra trước khi chúng ta được sinh ra, tức là, chúng diễn ra khi chúng ta còn trong bụng mẹ. Hiện nay tôi là một phóng viên mảng khoa học. Tôi viết báo và các chuyên đề tạp chí. Và tôi cũng là một người mẹ, Và hai vai trò này cùng được thể hiện trong cuốn sách tôi đã viết có tên gọi "Nguồn Gốc". "Nguồn gốc" là phần khởi đầu quan trọng của một lĩnh vực mới và thú vị được gọi là nguồn gốc bào thai. Nguồn gốc bào thai là một nguyên lý khoa học chỉ vừa mới xuất hiện trong hai thập kỷ vừa qua, và nó được dựa trên một lý thuyết cho rằng sức khỏe và thể trạng trong suốt cuộc đời của chúng ta bị ảnh hưởng chủ yếu bởi khoảng thời gian chín tháng chúng ta nằm trong bụng mẹ. Lý thuyết này không chỉ hấp dẫn tôi về mặt khoa học thuần túy, mà tôi còn bị thu hút với tư cách của một người sắp làm mẹ trong lúc đang nghiên cứu về đề tài này. Và một trong những điều thú vị nhất mà tôi gặt hái được từ công việc này, đó là tất cả chúng ta đều đang tìm hiểu và khám phá về thế giới trước cả khi chúng ta chào đời.
When we hold our babies for the first time, we might imagine that they're clean slates, unmarked by life, when in fact, they've already been shaped by us and by the particular world we live in. Today I want to share with you some of the amazing things that scientists are discovering about what fetuses learn while they're still in their mothers' bellies.
Khi lần đầu bồng ẵm những đứa bé trên tay, chúng ta nghĩ rằng chúng là những tinh thể trong suốt, vô tri vô giác về mặt chức năng, nhưng thực tế, chính chúng ta đã góp phần định hình nên các bé từ chính thế giới mình đang sống. Hôm nay tôi muốn chia sẻ cùng các bạn những điều kỳ diệu mà các nhà khoa học đang khám phá về quá trình nhận thức của bào thai khi chúng vẫn còn trong bụng mẹ.
First of all, they learn the sound of their mothers' voices. Because sounds from the outside world have to travel through the mother's abdominal tissue and through the amniotic fluid that surrounds the fetus, the voices fetuses hear, starting around the fourth month of gestation, are muted and muffled. One researcher says that they probably sound a lot like the the voice of Charlie Brown's teacher in the old "Peanuts" cartoon. But the pregnant woman's own voice reverberates through her body, reaching the fetus much more readily. And because the fetus is with her all the time, it hears her voice a lot. Once the baby's born, it recognizes her voice and it prefers listening to her voice over anyone else's.
Trước tiên hết chúng nhận biết được giọng nói của người mẹ. Vì các âm thanh từ thế giới bên ngoài phải đi qua lớp màn bụng dưới và qua bọc nước ối, những âm thanh bào thai nhận biết được, bắt đầu từ tháng thứ tư, là không âm hoặc âm bị rò. Một nhà nghiên cứu cho rằng những âm thanh đó nghe giống như tiếng của thầy của Charlie Brown trong bộ phim hoạt hình xưa "Những hạt đậu phụng"(Peanuts). Nhưng tiếng nói của người mẹ vang lại trong cơ thể của mình, và truyền đến bào thai dễ dàng hơn. Và bởi vì bào thai luôn nằm bên trong người mẹ, nên nó có thể cảm nhận được âm thanh của người mẹ nhiều hơn. Một khi em bé chào đời, nó sẽ nhận ra được giọng nói của mẹ và trẻ nhỏ luôn muốn nghe giọng của mẹ mình hơn giọng của những người khác.
How can we know this? Newborn babies can't do much, but one thing they're really good at is sucking. Researchers take advantage of this fact by rigging up two rubber nipples, so that if a baby sucks on one, it hears a recording of its mother's voice on a pair of headphones, and if it sucks on the other nipple, it hears a recording of a female stranger's voice. Babies quickly show their preference by choosing the first one. Scientists also take advantage of the fact that babies will slow down their sucking when something interests them and resume their fast sucking when they get bored. This is how researchers discovered that, after women repeatedly read aloud a section of Dr. Seuss' "The Cat in the Hat" while they were pregnant, their newborn babies recognized that passage when they hear it outside the womb. My favorite experiment of this kind is the one that showed that the babies of women who watched a certain soap opera every day during pregnancy recognized the theme song of that show once they were born. So fetuses are even learning about the particular language that's spoken in the world that they'll be born into.
Từ đâu chúng ta biết được điều này? Trẻ sơ sinh hầu như chưa thể làm được điều gì, ngoại trừ một việc chúng rất giỏi: đó là bú. Các nhà nghiên cứu đã dựa vào thực tế này để lắp đặt hai núm vú cao su. Khi em bé bú một núm vú cao su, thì nó sẽ nghe được giọng của mẹ mình trong tai nghe. Và nếu nó bú vào núm vú còn lại thì nó sẽ nghe giọng của một người phụ nữ khác. Đứa bé sẽ thể hiện ngay rằng nó thích giọng của mẹ mình bằng cách chọn cái núm vú đầu tiên. Các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng trẻ sẽ giảm tốc độ bú khi bị hấp dẫn bởi một điều gì đó, và bú bình thường trở lại khi chúng bắt đầu chán. Đây là những gì mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra: Khi những người mẹ cứ đọc đi đọc lại một đoạn của tác phẩm "Con Mèo trong cái nón" của Giáo sư Seuss trong lúc họ đang mang thai, thì những đứa bé khi chào đời cũng sẽ nhận biết được đoạn văn đó. Một kiểu thí nghiệm mà tôi rất thích đó là khi những phụ nữ đang mang thai xem một bộ phim truyền hình dài tập nào đó trong suốt quá trình mang thai thì đứa bé của họ khi sinh ra có thể nhận biết được nhạc nền của bộ phim đó. Các bào thai còn nhận biết được cả ngôn ngữ được dùng trong môi trường chúng được sinh ra.
A study published last year found that from birth, from the moment of birth, babies cry in the accent of their mother's native language. French babies cry on a rising note while German babies end on a falling note, imitating the melodic contours of those languages. Now why would this kind of fetal learning be useful? It may have evolved to aid the baby's survival. From the moment of birth, the baby responds most to the voice of the person who is most likely to care for it -- its mother. It even makes its cries sound like the mother's language, which may further endear the baby to the mother, and which may give the baby a head start in the critical task of learning how to understand and speak its native language.
Một nghiên cứu năm ngoái cho thấy rằng từ khi sinh ra, từ thời điểm được sinh ra, trẻ khóc theo ngữ giọng đặc trưng tiếng mẹ đẻ của chúng. Trẻ em Pháp khóc theo nốt cao trong khi trẻ em Đức kết thúc bằng nốt trầm, bắt chước theo tông điệu của những ngôn ngữ này. Vậy tại sao quá trình nhận thức trong giai đoạn bào thai này lại hữu dụng? Đó có thể là cách giúp giúp bé tồn tại. Ngay từ thời điểm được sinh ra, trẻ em đáp lại giọng nói của người chăm sóc chúng nhiều nhất - đó là người mẹ. Thậm chí cả khi khóc, tiếng khóc cũng giống như tiếng nói của mẹ, và chính điều này càng thắt chặt tình mẫu tử hơn, Cũng có thể chính điều này là một lực đẩy giúp bé học, hiểu và nói tiếng mẹ đẻ.
But it's not just sounds that fetuses are learning about in utero. It's also tastes and smells. By seven months of gestation, the fetus' taste buds are fully developed, and its olfactory receptors, which allow it to smell, are functioning. The flavors of the food a pregnant woman eats find their way into the amniotic fluid, which is continuously swallowed by the fetus. Babies seem to remember and prefer these tastes once they're out in the world. In one experiment, a group of pregnant women was asked to drink a lot of carrot juice during their third trimester of pregnancy, while another group of pregnant women drank only water. Six months later, the women's infants were offered cereal mixed with carrot juice, and their facial expressions were observed while they ate it. The offspring of the carrot juice drinking women ate more carrot-flavored cereal, and from the looks of it, they seemed to enjoy it more.
Nhưng âm thanh không phải là điều duy nhất mà bào thai nhận biết được khi còn trong bụng mẹ. Còn cả khứu giác và vị giác. Trong bảy tháng đầu tiên, các chồi vị giác của bào thai được phát triển hoàn toàn, đồng thời, các thụ quan khứu giác giúp trẻ tiếp nhận và phân biệt mùi vị bắt đầu hoạt động. Mùi vị thức ăn mà người mẹ hấp thụ truyền qua lớp nước ối, được hấp thụ một lần nữa bởi bào thai. Trẻ nhỏ thường nhớ và có xu hướng thích những mùi vị này một khi được sinh ra đời. Trong một cuộc thăm dò, một nhóm phụ nữ có thai được yêu cầu uống nhiều nước ép cà rốt trong 3 tháng cuối của quá trình mang thai, trong khi một nhóm khác chỉ uống nước lọc. Sáu tháng sau, người ta để cho các bé uống hỗn hợp nước ép cà rốt và ngũ cốc, đồng thời ghi nhận lại những nét mặt và biểu cảm của các bé khi chúng uống. Những đứa bé có mẹ đã uống nước ép cà rốt trước đó thì uống thứ hỗn hợp này nhiều hơn. Và vẻ mặt của các bé cho thấy dường như chúng muốn uống thêm nhiều hơn nữa.
A sort of French version of this experiment was carried out in Dijon, France where researchers found that mothers who consumed food and drink flavored with licorice-flavored anise during pregnancy showed a preference for anise on their first day of life, and again, when they were tested later, on their fourth day of life. Babies whose mothers did not eat anise during pregnancy showed a reaction that translated roughly as "yuck." What this means is that fetuses are effectively being taught by their mothers about what is safe and good to eat. Fetuses are also being taught about the particular culture that they'll be joining through one of culture's most powerful expressions, which is food. They're being introduced to the characteristic flavors and spices of their culture's cuisine even before birth.
Một thí nghiệm khác của Pháp diễn ra ở Dijon đã chỉ ra rằng những người mẹ hấp thụ thức ăn có vị cam thảo và hoa hồi trong quá trình mang thai thì đứa bé sẽ thể hiện sự ưa thích của mình đối với vị hoa hồi trong ngày đầu tiên của đời mình, và được chứng thực lại một lần nữa trong ngày thứ tư sau khi chào đời. Những đứa bé mà mẹ chúng không ăn hoa hồi trong quá trong quá trình mang thai thì cho rằng hoa hồi "ghê quá". Điều này nghĩa là người mẹ đã dạy cho bào thai nhận biết những món ăn nào ngon và an toàn cho chúng. Bào thai cũng được dạy về nền văn hóa đặc trưng mà trẻ sắp trở thành một thành viên trong đó thông qua một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa, đó là thức ăn. Trẻ được giới thiệu những đặc trưng về mùi vị của nền văn hóa ẩm thực địa phương trước cả khi chúng được sinh ra.
Now it turns out that fetuses are learning even bigger lessons. But before I get to that, I want to address something that you may be wondering about. The notion of fetal learning may conjure up for you attempts to enrich the fetus -- like playing Mozart through headphones placed on a pregnant belly. But actually, the nine-month-long process of molding and shaping that goes on in the womb is a lot more visceral and consequential than that. Much of what a pregnant woman encounters in her daily life -- the air she breathes, the food and drink she consumes, the chemicals she's exposed to, even the emotions she feels -- are shared in some fashion with her fetus. They make up a mix of influences as individual and idiosyncratic as the woman herself. The fetus incorporates these offerings into its own body, makes them part of its flesh and blood. And often it does something more. It treats these maternal contributions as information, as what I like to call biological postcards from the world outside.
Mà thật ra những bào thai này còn được dạy những bài học lớn hơn. Nhưng trước khi bàn về vấn đề đó, Tôi muốn nhắc đến một chuyện mà chắc các bạn đang thắc mắc. Ý niệm về quá trình nhận thức của bào thai có thể khuyến khích các bạn càng nỗ lực hơn trong việc nuôi dưỡng bào thai - bằng cách mở nhạc Mozart cho các bé nghe thông qua những headphones được đặt trên bụng. Nhưng thực ra, quá trình mang thai chín tháng, quá trình hình thành và phát triển diễn ra trong bụng lại có sức ảnh hưởng lớn hơn thế. Hầu hết những điều mà phụ nữ mang thai gặp phải hàng ngày -- bầu không khí, đồ ăn thức uống, các loại dược phẩm, thậm chí cả cảm xúc của người mẹ -- đều ảnh hưởng đến bào thai. Chúng là một chuỗi ảnh hưởng mang đặc tính cá nhân như bản thân của người phụ nữ. Bào thai tiếp nhận những đặc tính này vào trong cơ thể, và biến chúng thành một phần của chính cơ thể mình. Không chỉ thế, bào thai còn tiếp nhận những đặc trưng của người mẹ như một nguồn thông tin mà tôi gọi là những tấm danh thiếp di truyền từ thế giới bên ngoài.
So what a fetus is learning about in utero is not Mozart's "Magic Flute" but answers to questions much more critical to its survival. Will it be born into a world of abundance or scarcity? Will it be safe and protected, or will it face constant dangers and threats? Will it live a long, fruitful life or a short, harried one? The pregnant woman's diet and stress level in particular provide important clues to prevailing conditions like a finger lifted to the wind. The resulting tuning and tweaking of a fetus' brain and other organs are part of what give us humans our enormous flexibility, our ability to thrive in a huge variety of environments, from the country to the city, from the tundra to the desert.
Vậy nên những gì bào thai nhận biết được khi còn trong bụng mẹ không phải là bản nhạc "Magic Flute" của Mozart mà là những câu trả lời đóng vai trò thiết yếu cho sự tồn tại của chính đứa bé. Liệu đứa bé sẽ được sinh ra trong một gia cảnh sung túc hay thiếu thốn? Được chở che, chăm sóc hay phải đối mặt với những hiểm nguy và đe dọa? Liệu trẻ có được sống một cuộc sống dài lâu và tươi đẹp hay ngắn ngủi và vội vã? Đặc biệt, mức độ ăn kiêng và căng thẳng của người phụ nữ mang thai cũng đưa ra những gợi ý quan trọng về điều kiện tồn tại của bé, như một ngón tay lớn lên trong gió. Sự điều chỉnh có định hướng của bộ não thai nhi và các bộ phận khác trong cơ thể là một trong những đặc tính riêng biệt chỉ con người mới sở hữu. Khả năng thích ứng linh hoạt, khả năng ứng phó trước sự đa dạng của môi trường sống, từ nông thôn đến thành phố, từ lãnh nguyên lạnh giá đến sa mạc cằn cỗi.
To conclude, I want to tell you two stories about how mothers teach their children about the world even before they're born. In the autumn of 1944, the darkest days of World War II, German troops blockaded Western Holland, turning away all shipments of food. The opening of the Nazi's siege was followed by one of the harshest winters in decades -- so cold the water in the canals froze solid. Soon food became scarce, with many Dutch surviving on just 500 calories a day -- a quarter of what they consumed before the war. As weeks of deprivation stretched into months, some resorted to eating tulip bulbs. By the beginning of May, the nation's carefully rationed food reserve was completely exhausted. The specter of mass starvation loomed. And then on May 5th, 1945, the siege came to a sudden end when Holland was liberated by the Allies.
Để kết thúc phần này, tôi muốn kể cho các bạn nghe hai câu chuyện về cách thức mà những người mẹ đã dạy cho đứa bé biết về thế giới xung quanh trước khi chúng chào đời. Vào mùa thu năm 1944 những ngày đen tối nhất của Chiến Tranh Thế Giới thứ II, Quân đội Đức phong tỏa phía Tây của Hà Lan, và cùng lúc, vứt bỏ hết các chuyến hàng chở lương thực, thực phẩm. Cuộc vây hãm của Đảng Quốc Xã này đã diễn ra ngay trong mùa đông buốt giá - một trong những mùa đông khắc nghiệt nhất trong vài thập kỷ qua. Trời lạnh đến nỗi các con kênh đều bị đóng băng. Thực phẩm nhanh chóng trở nên khan hiếm, nhiều người Hà Lan chỉ được tiêu thụ 500 calo cho một ngày - chỉ bằng một phần tư so với khẩu phần ăn trước chiến tranh. Khi việc thiếu lương thực kéo dài hàng tháng liền, một vài người đã phải ăn củ của hoa tulip. Đầu tháng năm, nguồn lương thực dự trữ vốn dĩ đã hạn chế của quốc gia bị cạn kiệt hoàn toàn. Bóng ma chết chóc của nạn đói bao trùm khắp nơi. Và đến ngày 5 tháng 5 năm 1945, cuộc vây hãm kết thúc đột ngột khi Hà Lan được giải phóng với sự trợ giúp của Các Nước Liên Bang.
The "Hunger Winter," as it came to be known, killed some 10,000 people and weakened thousands more. But there was another population that was affected -- the 40,000 fetuses in utero during the siege. Some of the effects of malnutrition during pregnancy were immediately apparent in higher rates of stillbirths, birth defects, low birth weights and infant mortality. But others wouldn't be discovered for many years. Decades after the "Hunger Winter," researchers documented that people whose mothers were pregnant during the siege have more obesity, more diabetes and more heart disease in later life than individuals who were gestated under normal conditions. These individuals' prenatal experience of starvation seems to have changed their bodies in myriad ways. They have higher blood pressure, poorer cholesterol profiles and reduced glucose tolerance -- a precursor of diabetes.
Người ta cho rằng "Mùa Đông Đói kém" này đã giết chết khoảng 10,000 người và làm cho hàng ngàn người khác lâm vào bệnh tật. Và một phần dân số khác cũng bị ảnh hưởng -- 40,000 bào thai trong bụng mẹ vào thời điểm cuộc vây hãm đang diễn ra. Sự suy dinh dưỡng trong quá trình mang thai đã để lại một vài hậu quả rõ ràng ngay sau đó. Tỷ lệ trẻ bị chết non, dị dạng, suy dinh dưỡng và chết yểu cao hơn. Nhưng những hậu quả khác thì chưa hiển hiện ra ngoài trong nhiều năm sau đó. Hàng thập niên sau "Mùa Đông Đói", các nhà nghiên cứu đã ghi nhận lại những trường hợp một số người ra đời trong thời kỳ đó có khuynh hướng mắc phải bệnh béo phì, tiểu đường và các bệnh liên quan đến tim mạch khi về già hơn những người có điều kiện phát triển bình thường trong bụng mẹ. Những cá thể đã trải qua tình trạng thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ còn là bào thai có vẻ như đã thay đổi cơ thể họ theo vô số hướng khác nhau. Họ phải chịu chứng cao huyết áp, thiếu cholesterol, hạ đường huyết, và chứng tiền tiểu đường.
Why would undernutrition in the womb result in disease later? One explanation is that fetuses are making the best of a bad situation. When food is scarce, they divert nutrients towards the really critical organ, the brain, and away from other organs like the heart and liver. This keeps the fetus alive in the short-term, but the bill comes due later on in life when those other organs, deprived early on, become more susceptible to disease.
Tại sao việc thiếu dinh dưỡng trong bụng mẹ lại gây ra những chứng bệnh như vậy? Người ta lý giải rằng đó là vì các bào thai đã cố tồn tại trong điều kiện khắc nghiệt nhất. Khi thực phẩm trở nên khan hiếm, các bào thai đã chuyển nguồn dinh dưỡng đến bộ phận thiết yếu nhất trong cơ thể, đó là não, và dành ít dưỡng chất hơn cho những bộ phận khác, như tim và gan. Điều này sẽ giúp bào thai duy trì sự sống trong thời gian ngắn, nhưng hệ quả tất yếu sẽ đến sau này - những bộ phận bị thiếu dinh dưỡng trước đó dễ tổn thương và dễ mắc bệnh.
But that may not be all that's going on. It seems that fetuses are taking cues from the intrauterine environment and tailoring their physiology accordingly. They're preparing themselves for the kind of world they will encounter on the other side of the womb. The fetus adjusts its metabolism and other physiological processes in anticipation of the environment that awaits it. And the basis of the fetus' prediction is what its mother eats. The meals a pregnant woman consumes constitute a kind of story, a fairy tale of abundance or a grim chronicle of deprivation. This story imparts information that the fetus uses to organize its body and its systems -- an adaptation to prevailing circumstances that facilitates its future survival. Faced with severely limited resources, a smaller-sized child with reduced energy requirements will, in fact, have a better chance of living to adulthood.
Nhưng có thể đó chưa phải là tất cả những gì đang diễn ra. Dường như những bào thai được chỉ dẫn từ trong bụng mẹ để điều chỉnh chức năng sinh lý một cách phù hợp. Chúng tự trang bị cho mình để thích nghi với thế giới mà chúng sắp phải đối mặt ngay bên ngoài bụng mẹ. Bào thai điều chỉnh quá trình trao đổi chất và các quá trình sinh lý học để phù hợp với môi trường đang chờ đợi nó. Và cơ sở thông tin cho các bào thai đó là dựa vào những gì mẹ chúng ăn. Bữa ăn mà một phụ nữ mang thai hấp thụ được xem như một câu chuyện, một chuyện cổ tích về sự sung túc đủ đầy hoặc một chuỗi của những thiếu thốn, nghèo khổ. Câu chuyện này truyền đạt thông tin đến bào thai và giúp bào thai cấu trúc cơ thế và hệ cơ quan của nó -- để phù hợp với những điều kiện sống sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của nó trong tương lai. Đối mặt với nguồn lực cực kỳ khan hiếm, một đứa trẻ có thể trạng nhỏ bé với nhu cầu năng lượng khiêm tốn thực ra sẽ có nhiều cơ hội hơn để sống đến tuổi trưởng thành.
The real trouble comes when pregnant women are, in a sense, unreliable narrators, when fetuses are led to expect a world of scarcity and are born instead into a world of plenty. This is what happened to the children of the Dutch "Hunger Winter." And their higher rates of obesity, diabetes and heart disease are the result. Bodies that were built to hang onto every calorie found themselves swimming in the superfluous calories of the post-war Western diet. The world they had learned about while in utero was not the same as the world into which they were born.
Vấn đề chỉ thật sự xuất hiện khi những người phụ nữ mang thai, theo một cách nào đó, lại là những người kể chuyện không chính xác, khi các bào thai nhận được thông tin về một thế giới khan hiếm bên ngoài bụng mẹ nhưng cuối cùng, chúng lại được sinh ra trong một gia cảnh đầy đủ, sung túc. Đây là những gì xảy ra với những đứa trẻ của Hà Lan vào "Mùa Đông Đói". Và tỷ lệ cao hơn của bệnh béo phì, tiểu đường và bệnh tim mạch là kết quả của việc đó. Những cơ thể mà trước đây phải chắt chiu từng calorie thì nay lại được cung cấp một nguồn calories dồi dào từ chế độ dinh dưỡng thời hậu chiến tranh phía Tây. Thế giới mà chúng nhận thức trong bụng mẹ hóa ra lại không giống với thế giới mà chúng được sinh ra.
Here's another story. At 8:46 a.m. on September 11th, 2001, there were tens of thousands of people in the vicinity of the World Trade Center in New York -- commuters spilling off trains, waitresses setting tables for the morning rush, brokers already working the phones on Wall Street. 1,700 of these people were pregnant women. When the planes struck and the towers collapsed, many of these women experienced the same horrors inflicted on other survivors of the disaster -- the overwhelming chaos and confusion, the rolling clouds of potentially toxic dust and debris, the heart-pounding fear for their lives.
Và đây là một câu chuyện khác. Vào lúc 8:46 sáng ngày 11 tháng 09 năm 2001, có khoảng hàng ngàn người trong khu Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại New York -- đã đổ xô ra khỏi tàu lửa, các cô phục vụ chuẩn bị bàn ghế cho một buổi sáng đông đúc, các nhà môi giới đang làm việc trên điện thoại tại phố Wall. 1.700 người trong số những người này là các phụ nữ đang mang thai. Khi chứng kiến cảnh máy bay đâm thẳng vào hai tòa tháp và chúng đổ sập xuống, rất nhiều phụ nữ mang thai đã bị ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng đó - nó cũng ảnh hưởng đến những người sống sót khác trong thảm họa này - sự hỗn loạn tràn ngập khắp nơi, những đám mây cuộn tròn bụi và xà bần, nỗi sợ hãi về cái chết làm tim đập liên hồi.
About a year after 9/11, researchers examined a group of women who were pregnant when they were exposed to the World Trade Center attack. In the babies of those women who developed post-traumatic stress syndrome, or PTSD, following their ordeal, researchers discovered a biological marker of susceptibility to PTSD -- an effect that was most pronounced in infants whose mothers experienced the catastrophe in their third trimester. In other words, the mothers with post-traumatic stress syndrome had passed on a vulnerability to the condition to their children while they were still in utero.
Một năm sau sau thảm họa 9/11, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra một nhóm phụ nữ mang thai đã từng chứng kiến cuộc tấn công vào Tòa Nhà thương mại thế giới. Những đứa con của những người phụ nữ này bắt đầu có những dấu hiệu của chứng rối loạn hậu chấn thương tâm lý, gọi tắt là PTSD, vì những gì họ đã trải qua. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một đặc điểm về mặt sinh học có khả năng dẫn đến chứng PTSD - một tác động được nhắc đến nhiều nhất đối với những đứa trẻ có mẹ đã trải qua những biến cố trong ba tháng cuối của thai kỳ. Hay nói cách khác, những người mẹ với chứng rối loạn hậu chấn thương tâm lý sẽ chuyển tiếp tình trạng dễ tổn thương của mình vào đứa con trong lúc chúng vẫn còn trong bụng.
Now consider this: post-traumatic stress syndrome appears to be a reaction to stress gone very wrong, causing its victims tremendous unnecessary suffering. But there's another way of thinking about PTSD. What looks like pathology to us may actually be a useful adaptation in some circumstances. In a particularly dangerous environment, the characteristic manifestations of PTSD -- a hyper-awareness of one's surroundings, a quick-trigger response to danger -- could save someone's life. The notion that the prenatal transmission of PTSD risk is adaptive is still speculative, but I find it rather poignant. It would mean that, even before birth, mothers are warning their children that it's a wild world out there, telling them, "Be careful."
Và bây giờ hãy nghĩ về điều này: Chứng rối loạn hậu chấn thương tâm lý là một phản ứng sai lệch của cơ thể nhằm chống lại căng thẳng, khiến cho nạn nhân phải chịu đựng vô vàn đau đớn một cách không cần thiết. Nhưng có một cách nghĩ khác về PTSD. Cái hiện tượng mà chúng ta xem như một bệnh lý đôi khi lại là một sự thích nghi hữu dụng trong một vài trường hợp. Nhất là trong một môi trường nguy hiểm, những biểu hiện đặc trưng của PTSD -- sự chú ý thái quá đến môi trường xung quanh, khả năng phản ứng nhanh đối với nguy hiểm -- có thể cứu được bản thân người đó. Có người cho rằng sự di truyền triệu chứng PTSD từ trong bụng mẹ mang tính thích ứng chỉ là suy đoán mà thôi, nhưng tôi cảm thấy ý kiến này tương đối hợp lý. Nó có nghĩa là, thậm chí trong thời kỳ thai nghén, những người mẹ đã báo hiệu cho đứa bé rằng ngoài kia là một thế giới dữ dội, họ nói với chúng rằng, "Cẩn thận con nhé."
Let me be clear. Fetal origins research is not about blaming women for what happens during pregnancy. It's about discovering how best to promote the health and well-being of the next generation. That important effort must include a focus on what fetuses learn during the nine months they spend in the womb. Learning is one of life's most essential activities, and it begins much earlier than we ever imagined.
Cho tôi được giải thích thêm. Nghiên cứu về bào thai không nhằm đổ lỗi cho người mẹ về những gì xảy ra trong quá trình mang thai, mà là tìm ra cách tốt nhất để cải thiện sức khỏe và thể trạng của thế hệ tiếp theo. Nỗ lực quan trọng phải bao gồm việc tập trung vào quá trình nhận thức của bào thai trong chín tháng ở trong bụng mẹ. Nhận thức là một trong những hoạt động trọng yếu nhất của con người và nó bắt đầu ở một giai đoạn sớm hơn nhiều so với những gì chúng ta từng nghĩ.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
Vỗ tay