So my moment of truth did not come all at once. In 2010, I had the chance to be considered for promotion from my job as director of policy planning at the U.S. State Department. This was my moment to lean in, to push myself forward for what are really only a handful of the very top foreign policy jobs, and I had just finished a big, 18-month project for Secretary Clinton, successfully, and I knew I could handle a bigger job.
Khoảnh khắc sự thật của tôi không đến ngay lập tức. Vào năm 2010, tôi có cơ hội được cân nhắc để thăng chức từ vị trí hiện tại lên giám đốc quy hoạch cộng đồng của Bộ ngoại giao Mỹ. Đây là cơ hội để tôi tiến sâu thúc đẩy bản thân đạt được một vị trí đáng mơ ước trong số các công việc hành chính công. và tôi vừa hoàn thành một dự án lớn kéo dài 18 tháng cho bộ trưởng Clinton và tôi biết rằng mình có khả năng đảm đương một nhiệm vụ lớn hơn
The woman I thought I was would have said yes. But I had been commuting for two years between Washington and Princeton, New Jersey, where my husband and my two teenage sons lived, and it was not going well. I tried on the idea of eking out another two years in Washington, or maybe uprooting my sons from their school and my husband from his work and asking them to join me. But deep down, I knew that the right decision was to go home, even if I didn't fully recognize the woman who was making that choice.
Tôi nghĩ mình là người phụ nữ sẽ nói đồng ý. Nhưng trong 2 năm, tôi đã đi lại giữa Washington và Princeton, New Jersey nơi chồng và hai đứa con trai thiếu niên của tôi sinh sống và việc đó không ổn chút nào Tôi đã cố thử cách kéo dài thêm 2 năm nữa ở Washington, hay đề nghị hai con trai và chồng chuyển trường và chỗ làm để đoàn tụ với tôi. Tuy nhiên, trong sâu thẳm, tôi biết rằng sự lựa chọn đúng đắn là ở nhà, Dù tôi không nhận thức được đầy đủ rằng người phụ nữ nào trong tôi đã chọn lựa chọn đó
That was a decision based on love and responsibility. I couldn't keep watching my oldest son make bad choices without being able to be there for him when and if he needed me. But the real change came more gradually. Over the next year, while my family was righting itself, I started to realize that even if I could go back into government, I didn't want to. I didn't want to miss the last five years that my sons were at home. I finally allowed myself to accept what was really most important to me, not what I was conditioned to want or maybe what I conditioned myself to want, and that decision led to a reassessment of the feminist narrative that I grew up with and have always championed.
Đó là một sự lựa chọn dựa trên tình yêu và trách nhiệm. Tôi không thể theo dõi con trai lớn của mình phạm sai lầm mà không có mặt ở đó với nó khi và nếu nó cần đến tôi. Nhưng sự thay đổi thật sự đến một cách từ từ. Sang năm sau, khi gia đình tôi đã tự nó ổn định, tôi bắt đầu nhận ra rằng kể cả khi tôi có thể quay trở lại chính phủ, tôi cũng không muốn thế. Tôi không muốn bỏ lỡ năm năm cuối của các con tôi ở nhà. Cuối cùng, tôi cho phép bản thân chấp nhận cái nào là quan trọng nhất đối với mình, chứ không phải cái nào tôi muốn hoặc có thể buộc bản thân muốn nó, và quyết định đó dẫn tới việc xem xét lại câu chuyện nữ quyền mà tôi đã lớn lên cùng với nó và luôn luôn xem nó là kim chỉ anm
I am still completely committed to the cause of male-female equality, but let's think about what that equality really means, and how best to achieve it. I always accepted the idea that the most respected and powerful people in our society are men at the top of their careers, so that the measure of male-female equality ought to be how many women are in those positions: prime ministers, presidents, CEOs, directors, managers, Nobel laureates, leaders. I still think we should do everything we possibly can to achieve that goal. But that's only half of real equality, and I now think we're never going to get there unless we recognize the other half. I suggest that real equality, full equality, does not just mean valuing women on male terms. It means creating a much wider range of equally respected choices for women and for men. And to get there, we have to change our workplaces, our policies and our culture.
Tôi đã hoàn toàn chấp nhận căn nguyên của sự bình đẳng nam nữ, nhưng hãy suy nghĩ sự bình đẳng thực chất là gì, và cách nào tốt nhất để đạt được nó. Tôi đã luôn chấp nhận quan niệm rằng những người được kính trọng và quyền lực nhất trong xã hội là những người đạt được chức vụ cao trong nghề nghiệp, do đó, định lượng về bình đẳng nam nữ có xu hướng đo lường xem có bao nhiêu phụ nữ nắm giữ các vị trí đó: thủ tướng, chủ tịch, CEO, giám đốc, quản lý, nhà khoa học đoạt giải Nobel, nhà lãnh đạo. Tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên làm tất cả những gì có thể để đạt được mục đích. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một nửa của sự bình đẳng và bây giờ, tôi nghĩ rằng ta sẽ không bao giờ đến được đó nếu không nhận ra nửa còn lại. Tôi nghĩ rằng bình đẳng thật sự, bình đẳng hoàn toàn, không có nghĩa là định giá phụ nữ trong các lĩnh vực của nam giới. Mà có nghĩa là tạo dựng một khoảng rộng hơn cho các sự lựa chọn được tôn trọng đối với cả nữ và nam. Và để tới được đó, chúng ta phải thay đổi môi trường làm việc các chính sách và văn hóa của mình.
In the workplace, real equality means valuing family just as much as work, and understanding that the two reinforce each other. As a leader and as a manager, I have always acted on the mantra, if family comes first, work does not come second -- life comes together. If you work for me, and you have a family issue, I expect you to attend to it, and I am confident, and my confidence has always been borne out, that the work will get done, and done better. Workers who have a reason to get home to care for their children or their family members are more focused, more efficient, more results-focused. And breadwinners who are also caregivers have a much wider range of experiences and contacts. Think about a lawyer who spends part of his time at school events for his kids talking to other parents. He's much more likely to bring in new clients for his firm than a lawyer who never leaves his office. And caregiving itself develops patience -- a lot of patience -- and empathy, creativity, resilience, adaptability. Those are all attributes that are ever more important in a high-speed, horizontal, networked global economy.
Ở nơi làm việc, bình đẳng thật sự nghĩa là đánh giá gia đình cũng quan trọng như công việc, và hiểu rằng hai lĩnh vực đó thúc đẩy lẫn nhau. Là một người lãnh đạo và một nhà quản lý, tôi luôn hành động theo phương châm, nếu gia đình không đứng đầu, công việc không thể đứng thứ hai -- hai cái đó đi cùng nhau trong cuộc sống. Nếu bạn làm việc cho tôi, và bạn có một vấn đề về gia đình, tôi muốn bạn giải quyết nó, và tôi tin rằng, và sự tự tin của tôi luôn được chứng minh, rằng công việc sẽ suôn sẻ và được thực hiện tốt hơn. Những nhân viên có lý do để trở về nhà, chăm sóc con cái hoặc các thành viên trong gia đình, luôn tập trung hơn, hiệu quả hơn, chú trọng đến kết quả công việc hơn. Và người chủ gia đình, cũng là người đem đến sự quan tâm nhiều nhất cho các thành viên còn lại có phạm vi rộng hơn về kinh nghiệm và các mối quan hệ. Hãy nghĩ về một luật sư, người đã trải qua một phần đời tại các sự kiện của trường với con mình, nói chuyện với những phụ huynh khác. Anh ta có xu hướng mang đến nhiều hơn các khách hàng mới cho công ty so với một luật sư không bao giờ rời khỏi văn phòng. Và sự quan tâm tự nó, phát triển tính kiên nhẫn rất nhiều sự kiên nhẫn và tính cảm thông, sáng tạo, sự bền bỉ và thích nghi. Tất cả những đức tính này thậm chí còn quan trọng hơn trong nền kinh tế mạng lưới toàn cầu đang phát triển nhanh chóng.
The best companies actually know this. The companies that win awards for workplace flexibility in the United States include some of our most successful corporations, and a 2008 national study on the changing workforce showed that employees in flexible and effective workplaces are more engaged with their work, they're more satisfied and more loyal, they have lower levels of stress and higher levels of mental health. And a 2012 study of employers showed that deep, flexible practices actually lowered operating costs and increased adaptability in a global service economy.
Những công ty tốt nhất thật sự biết điều đó. Các công ty đạt được giải thưởng về môi trường làm việc linh hoạt ở Mỹ, bao gồm một vài trong số các tập đoàn thành công nhất, và trong một nghiên cứu tầm quốc gia vào năm 2008 về thay đổi trong lực lượng lao động, chỉ ra rằng những nhân viên linh hoạt và hiệu quả nhất tại nơi làm việc, gắn bó với công việc của họ hơn, học hài lòng và trung thành hơn, họ ít gặp stress hơn, và có tinh thần lành mạnh hơn. Và một nghiên cứu năm 2012 về các doanh nghiệp, chỉ ra rằng các hoạt động sâu, linh hoạt, thật sự giảm thiểu chi phí vận hành, và tăng tính thích nghi trong nền kinh tế dịch vụ toàn cầu.
So you may think that the privileging of work over family is only an American problem. Sadly, though, the obsession with work is no longer a uniquely American disease. Twenty years ago, when my family first started going to Italy, we used to luxuriate in the culture of siesta. Siesta is not just about avoiding the heat of the day. It's actually just as much about embracing the warmth of a family lunch. Now, when we go, fewer and fewer businesses close for siesta, reflecting the advance of global corporations and 24-hour competition. So making a place for those we love is actually a global imperative.
Do đó, bạn có thể nghĩ rằng sự ưu tiên công việc lên trên gia đình chỉ là vấn đề của nước Mỹ. Buồn thay, sự ám ảnh với công việc không chỉ là căn bệnh của riêng quốc gia này. Hai mươi năm trước, khi gia đình tôi lần đầu tiên đến Ý, chúng tôi đã được đắm mình vào văn hóa ngủ trưa. Giấc ngủ trưa không chỉ để tránh cái nóng trong ngày. Nó thật sự giống như ta hưởng thụ hơi ấm của bữa ăn gia đình. Bây giờ, càng ngày càng có ít các hoạt động gần với ngủ trưa, phản ảnh sự phát triển của các tập đoàn toàn cầu, và sự cạnh tranh suốt 24 giờ. Do đó, việc dành một nơi cho những gì chúng ta yêu quý, thật sự là một cấp thiết toàn cầu.
In policy terms, real equality means recognizing that the work that women have traditionally done is just as important as the work that men have traditionally done, no matter who does it. Think about it: Breadwinning and caregiving are equally necessary for human survival. At least if we get beyond a barter economy, somebody has to earn an income and someone else has to convert that income to care and sustenance for loved ones.
Theo các thuật ngữ công cộng, bình đẳng thật sự có nghĩa là công nhận rằng các công việc mà phụ nữ đã làm một cách truyền thống cũng quan trọng như, các công việc mà nam giới làm, dù ai là người thực hiện nó đi chăng nữa. Hãy nghĩ về điều này : việc chu cấp và chăm sóc là hai nhu cầu cần thiết nhau đối với sự tồn vong của nhân loại. Ít nhất, nếu chúng ta đi xa hơn trong một nền kinh tế trao đổi, một ai đó phải kiếm thu nhập và người kia phải chuyển đổi thu nhập đó thành sự quan tâm và thức ăn cho những người mà họ yêu quý.
Now most of you, when you hear me talk about breadwinning and caregiving, instinctively translate those categories into men's work and women's work. And we don't typically challenge why men's work is advantaged. But consider a same-sex couple like my friends Sarah and Emily. They're psychiatrists. They got married five years ago, and now they have two-year-old twins. They love being mothers, but they also love their work, and they're really good at what they do. So how are they going to divide up breadwinning and caregiving responsibilities? Should one of them stop working or reduce hours to be home? Or should they both change their practices so they can have much more flexible schedules? And what criteria should they use to make that decision? Is it who makes the most money or who is most committed to her career? Or who has the most flexible boss?
Hầu hết các bạn, khi nghe nói về việc chu cấp và chăm sóc, theo bản năng sẽ phiên dịch hai loại này thành các công việc của đàn ông và phụ nữ. Và chúng ta không thử hỏi, tại sao các công việc của nam giới lại được đề cao hơn. Nhưng hãy thử xem xét một cặp đôi đồng giới như các bạn tôi, Sarah và Emily. Họ đều là bác sỹ tâm lý. Họ kết hôn 5 năm trước, và hiện tại, họ có một cặp song sinh 2 tuổi. Họ thích trở thành những người mẹ, nhưng họ cũng yêu thích công việc của mình, và họ thực sự rất giỏi. Vậy, làm thế nào họ phân chia các trách nhiệm chu cấp và chăm sóc? Một người trong số họ nên nghỉ việc hoặc giảm thời gian làm việc để ở nhà? Hoặc họ nên thay đổi cách làm việc của mình để cả hai đều có thời gian biểu linh hoạt hơn? Và họ sẽ dựa theo tiêu chuẩn nào để quyết định việc đó? Dựa trên ai làm ra nhiều tiền nhất hay ai cam kết với công việc nhiều nhất? Hoặc ai có sếp linh động nhất?
The same-sex perspective helps us see that juggling work and family are not women's problems, they're family problems. And Sarah and Emily are the lucky ones, because they have a choice about how much they want to work. Millions of men and women have to be both breadwinners and caregivers just to earn the income they need, and many of those workers are scrambling. They're patching together care arrangements that are inadequate and often actually unsafe. If breadwinning and caregiving are really equal, then why shouldn't a government invest as much in an infrastructure of care as the foundation of a healthy society as it invests in physical infrastructure as the backbone of a successful economy?
Viễn cảnh đồng giới giúp chúng ta thấy rằng, gia đình và công việc không phải là những vấn đề của nữ giới chúng là vấn đề của gia đình. Và Sarah và Emily là những người may mắn, vì họ đều có các sự lựa chọn về việc họ muốn làm việc như thế nào. Hàng triệu đàn ông và phụ nữ phải đóng vai trò là cả người chu cấp và chăm sóc, chỉ để kiếm thu nhập mà họ cần, và rất nhiều người trong số các nhân viên xáo trộn hai việc đó. Họ cùng nhau ráp nối các thỏa thuận chăm sóc một cách không thỏa đáng và thường thực sự không an toàn. Nếu việc chu cấp và chăm sóc cho gia đình thật sự bình đẳng, thì tại sao chính phủ không đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc chăm sóc gia đình cũng như một tổ chức xã hội lành mạnh như khi đầu tư vào các cơ sở hạ tầng như xương sống của một nền kinh tế thành công?
The governments that get it -- no surprises here -- the governments that get it, Norway, Sweden, Denmark, the Netherlands, provide universal child care, support for caregivers at home, school and early childhood education, protections for pregnant women, and care for the elderly and the disabled. Those governments invest in that infrastructure the same way they invest in roads and bridges and tunnels and trains. Those societies also show you that breadwinning and caregiving reinforce each other. They routinely rank among the top 15 countries of the most globally competitive economies, but at the same time, they rank very high on the OECD Better Life Index. In fact, they rank higher than other governments, like my own, the U.S., or Switzerland, that have higher average levels of income but lower rankings on work-life balance.
Chính phủ nào thực hiện được điều đó không lấy gì làm ngạc nhiên rằng các chính phủ thực hiện được điều đó là Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, cung cấp các dịch vụ chăm sóc trẻ em phổ quát, hỗ trợ những người chăm sóc gia đình tại nhà, trường học, và giáo dục trẻ em sớm, các bảo hộ cho phụ nữ mang thai và quan tâm đến người già và người tàn tật. Các chính phủ này đầu tư vào các cơ sở hạ tầng giống như cách họ đầu tư vào đường xá, cầu cống và đường hầm, tàu điện. Các xã hội này cũng chỉ ra cho bạn rằng việc chu cấp và chăm sóc gia đình thúc đẩy lẫn nhau. Các quốc gia này vẫn đều đặn lọt vào top 15 quốc gia có nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh phát triển nhất, nhưng cùng lúc, họ được xếp hạng rất cao về chỉ số cuộc sống tốt hơn của OECD. Thật ra, các quốc gia đó được xếp hạng cao hơn các chính phủ khác, như chúng ta, Mỹ, hoặc Thụy Sỹ, những nước có mức thu nhập bình quân trên đầu người cao hơn, nhưng có chỉ số xếp hạng về sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống thấp hơn.
So changing our workplaces and building infrastructures of care would make a big difference, but we're not going to get equally valued choices unless we change our culture, and the kind of cultural change required means re-socializing men. (Applause) Increasingly in developed countries, women are socialized to believe that our place is no longer only in the home, but men are actually still where they always were. Men are still socialized to believe that they have to be breadwinners, that to derive their self-worth from how high they can climb over other men on a career ladder. The feminist revolution still has a long way to go. It's certainly not complete. But 60 years after "The Feminine Mystique" was published, many women actually have more choices than men do. We can decide to be a breadwinner, a caregiver, or any combination of the two. When a man, on the other hand, decides to be a caregiver, he puts his manhood on the line. His friends may praise his decision, but underneath, they're scratching their heads. Isn't the measure of a man his willingness to compete with other men for power and prestige? And as many women hold that view as men do. We know that lots of women still judge the attractiveness of a man based in large part on how successful he is in his career. A woman can drop out of the work force and still be an attractive partner. For a man, that's a risky proposition. So as parents and partners, we should be socializing our sons and our husbands to be whatever they want to be, either caregivers or breadwinners. We should be socializing them to make caregiving cool for guys. (Applause)
Do đó, việc thay đổi môi trường làm việc và xây dựng các cơ sở hạ tầng dành cho việc chăm sóc gia đình có thể đem đến một sự thay đổi lớn. Tuy nhiên, chúng ta không thể đạt được sự cân bằng về giá trị giữa các lựa chọn trừ khi ta thay đổi văn hóa của chính mình, và sự thay đổi về văn hóa này đòi hỏi các phương tiện để xã hội hóa lại nam giới. ( Vỗ tay) Tại các quốc gia phát triển, phụ nữ ngày càng được xã hội hóa để tin rằng vị trí của chúng ta không chỉ là xó bếp, nhưng đàn ông thực sự vẫn chưa có sự thay đổi. Họ vẫn được xã hội hóa để tin rằng, họ phải là người chu cấp trong gia đình, rằng giá trị bản thân của họ bắt nguồn từ việc có thể leo cao đến đâu so với những người khác trong nấc thang sự nghiệp. Cuộc cách mạng nữ quyền vẫn còn một con đường rất dài trước mắt. Nó chắc chắn vẫn chưa hoàn thành. Nhưng 60 năm sau " Bí ấn nữ giới" được xuất bản, rất nhiều phụ nữ đã thật sự có nhiều sự lựa chọn hơn nam giới. Chúng ta có thể quyết định trở thành người chu cấp, người chăm sóc, hoặc cả hai Nhưng mặt khác, nếu một người đàn ông, quyết định trở thành người chăm sóc, anh ấy đã đặt nam tính của mình sang một bên. Bạn bè của anh ta có thể chúc mừng cho quyết định đó, nhưng trong sâu thẳm, họ đang gãi đầu. Liệu có đúng không nếu đánh giá một người đàn ông bằng ý chí khi cạnh tranh với những người đàn ông khác vì quyền lực và sự thịnh vượng? Và nhiều phụ nữ cũng giữ quan điểm này. Chúng ta biết rằng nhiều phụ nữ vẫn đánh giá độ hấp dẫn của một người đàn ông bằng mức độ thành công của anh ta trong công việc. Một người phụ nữ có thể nghỉ làm và vẫn là một người bạn đời hấp dẫn. Nhưng với đàn ông, đó là điều khá mạo hiểm. Do đó, với tư cách là những bậc phụ huynh, và vợ chồng chúng ta nên để cho các con trai và chồng mình đảm nhận bất cứ vai trò nào mà họ mong muốn cho dù là người chăm sóc, hoặc người chu cấp. Chúng ta nên xã hội hoá họ để khiến cho việc chăm sóc cũng trở nên tuyệt vời cho nam giới. ( Vỗ tay )
I can almost hear lots of you thinking, "No way." But in fact, the change is actually already happening. At least in the United States, lots of men take pride in cooking, and frankly obsess over stoves. They are in the birthing rooms. They take paternity leave when they can. They can walk a baby or soothe a toddler just as well as their wives can, and they are increasingly doing much more of the housework. Indeed, there are male college students now who are starting to say, "I want to be a stay-at-home dad." That was completely unthinkable 50 or even 30 years ago. And in Norway, where men have an automatic three month's paternity leave, but they lose it if they decide not to take it, a high government official told me that companies are starting to look at prospective male employees and raise an eyebrow if they didn't in fact take their leave when they had kids. That means that it's starting to seem like a character defect not to want to be a fully engaged father.
Tôi có thể nghe thấy nhiều người trong số các bạn đang nghĩ rằng : " Không thể nào". Tuy nhiên, sự thay đổi đó thật sự đã và đang diễn ra. Ít nhất, ở Mỹ, nhiều nam giới phụ trách việc nấu nướng và các công việc bếp núc khác. Họ làm việc trong các phòng sinh đẻ. Họ có thể nghỉ phép để chăm sóc đứa con mới sinh bất cứ khi nào họ muốn. Họ có thể đưa con đi dạo, hay nựng nịu một đứa trẻ cũng giỏi giang như những người vợ vậy Và họ đang làm càng ngày càng nhiều các công việc nội trợ. Thật ra, hiện tại họ là những sinh viên nam sẵn sàng nói rằng, " Tôi muốn làm một người bố ở nhà". Đó là điều hoàn toàn chưa bao giờ được nghĩ đến trong 50 hoặc thậm chí 30 năm trước. Và ở Na Uy, nơi mà nam giới có 3 tháng tự động nghỉ phép khi có con mới sinh, nhưng họ sẽ mất quyền này nếu họ quyết định không nghỉ, một nhân viên cấp cao của chính phủ nói với tôi rằng các công ty đang bắt đầu chú ý tới các nhân viên nam tiềm năng, và nhíu mày nếu họ không thực hiện kì nghỉ phép đó khi có con. Điều đó nghĩa là việc này đang bắt đầu được xem xét như một điểm yếu nếu không trở thành một người cha có trách nhiệm.
So I was raised to believe that championing women's rights meant doing everything we could to get women to the top. And I still hope that I live long enough to see men and women equally represented at all levels of the work force. But I've come to believe that we have to value family every bit as much as we value work, and that we should entertain the idea that doing right by those we love will make all of us better at everything we do.
Do đó, tôi đã bắt đầu tin rằng các quyền cho nữ giới nghĩa là làm tất cả những gì chúng ta có thể để đưa nữ giới lên đỉnh cao. Và tôi vẫn hi vọng rằng mình sẽ sống đủ lâu để chứng kiến đàn ông và phụ nữ đại diện ngang hàng tại tất cả các cấp bậc của lực lượng lao động. Nhưng tôi cũng tin rằng chúng ta phải coi trọng gia đình ở tất cả các khía cạnh như công việc, và chúng ta nên nuôi dưỡng ý tưởng rằng làm những gì chúng ta yêu thích sẽ khiến ta trở nên tốt hơn trong mỗi việc ta làm.
Thirty years ago, Carol Gilligan, a wonderful psychologist, studied adolescent girls and identified an ethic of care, an element of human nature every bit as important as the ethic of justice. It turns out that "you don't care" is just as much a part of who we are as "that's not fair." Bill Gates agrees. He argues that the two great forces of human nature are self-interest and caring for others. Let's bring them both together. Let's make the feminist revolution a humanist revolution. As whole human beings, we will be better caregivers and breadwinners. You may think that can't happen, but I grew up in a society where my mother put out small vases of cigarettes for dinner parties, where blacks and whites used separate bathrooms, and where everybody claimed to be heterosexual. Today, not so much. The revolution for human equality can happen. It is happening. It will happen. How far and how fast is up to us.
Ba mươi năm trước, Carol Gilligan, một nhà tâm lý học tuyệt vời, nghiên cứu về những thiếu nữ, và nhận ra rằng giá trị của sự quan tâm, một trong những yếu tố của bản chất loài người cũng quan trọng như giá trị của công lý. Hóa ra câu " bạn không quan tâm " cũng là một phần của việc chúng ta là ai như " điều đó không công bằng ". Bill Gates cũng đồng ý với điều này. Ông lý luận rằng hai sức mạnh lớn nhất của bản chất con người là quyền lợi bản thân và sự quan tâm đến người khác. Hãy đem hai thứ đó lại gần nhau. Hãy biến cuộc cách mạng nữ quyền thành một cuộc cách mạng nhân văn. Tất cả mọi người, chúng ta sẽ trở thành những người chu cấp và chăm sóc tốt hơn. Bạn có thể nghĩ rằng điều này là không thể, nhưng tôi đã lớn lên ở một xã hội, mà mẹ tôi đã ném đi nhiều hộp thuốc lá trong các bữa tiệc tối, nơi mà người da trắng và người da đen phải sử dụng các nhà vệ sinh riêng, và nơi mà mọi người chỉ công nhận rằng mình dị tính. Hiện nay, không có quá nhiều biến chuyển. Cuộc cách mạng về quyền bình đẳng của con người có thể xảy ra. đang xảy ra. sẽ xảy ra. Nhanh và xa như thế nào đều tuỳ thuộc vào chúng ta.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
( Vỗ tay)