As a student of adversity, I've been struck over the years by how some people with major challenges seem to draw strength from them. And I've heard the popular wisdom that that has to do with finding meaning. And for a long time, I thought the meaning was out there, some great truth waiting to be found.
Là một người học về nghịch cảnh qua năm tháng, tôi bị bất ngờ bởi cái cách mà một số người tiếp thêm sức mạnh từ những thử thách lớn lao mà họ phải đương đầu, và tôi có biết châm ngôn liên quan tới việc tìm kiếm ý nghĩa. Trong một thời kỳ dài, tôi nghĩ ý nghĩa phải nằm đâu đó ngoài kia, một sự thật đang chờ được tìm ra.
But over time, I've come to feel that the truth is irrelevant. We call it "finding meaning," but we might better call it "forging meaning."
Nhưng lần hồi, tôi cảm thấy rằng sự thật thì không liên quan. Chúng ta gọi đó là tìm kiếm ý nghĩa, nhưng tôi nghĩ nên gọi đó là tôi luyện ý nghĩa.
My last book was about how families manage to deal with various kinds of challenging or unusual offspring. And one of the mothers I interviewed, who had two children with multiple severe disabilities, said to me, "People always give us these little sayings like, 'God doesn't give you any more than you can handle.' But children like ours are not preordained as a gift. They're a gift because that's what we have chosen."
Cuốn sách gần nhất của tôi nói về thế nào các gia đình xử lý những thách thức khác nhau hay những đứa con bất bình thường, một bà mẹ có hai con bị nhiều khuyết tật nặng, đã nói với tôi: "Người ta hay nói những câu như, "Chúa không bắt ta chịu đựng quá khả năng mình" nhưng con cái của chúng tôi không được mặc định là món quà cho cha mẹ. Chúng nó là quà vì đó là cái chúng tôi đã lựa chọn."
We make those choices all our lives. When I was in second grade, Bobby Finkel had a birthday party and invited everyone in our class but me. My mother assumed there had been some sort of error, and she called Mrs. Finkel, who said that Bobby didn't like me and didn't want me at his party. And that day, my mom took me to the zoo and out for a hot fudge sundae. When I was in seventh grade, one of the kids on my school bus nicknamed me "Percy," as a shorthand for my demeanor. And sometimes, he and his cohort would chant that provocation the entire school bus ride, 45 minutes up, 45 minutes back: "Percy! Percy! Percy! Percy!" When I was in eighth grade, our science teacher told us that all male homosexuals develop fecal incontinence because of the trauma to their anal sphincter. And I graduated high school without ever going to the cafeteria, where I would have sat with the girls and been laughed at for doing so, or sat with the boys, and been laughed at for being a boy who should be sitting with the girls.
Chúng ta ra những quyết định như thế suốt cuộc đời mình. Hồi tôi học lớp hai, Bobby Finkle có một bữa tiệc sinh nhật và mời tất cả các bạn trong lớp, trừ tôi. Mẹ tôi cho là có một sự nhầm lẫn nào đó, và gọi bà Finkle, bà ta trả lời rằng Bobby không ưa gì tôi và không muốn tôi đến dự tiệc của cậu ấy. Hôm đó, mẹ đưa tôi đến sở thú và đi ăn kem sôcôla. Hồi học lớp bảy, một đứa nhóc đi cùng xe buýt với tôi đã gán cho tôi cái tên "Percy" như để châm chọc bộ dạng của tôi và đôi khi, nó và đồng bọn cứ hò reo câu đó để trêu chọc tôi suốt quãng thời gian trên xe buýt 45 phút đi, 45 phút về, "Percy! Percy! Percy! Percy!" Khi tôi học lớp 8, giáo viên khoa học dạy chúng tôi rằng tất cả những người đồng tính nam bị bệnh phân tự rò ra vì bị đau cơ vòng hậu môn. Tôi tốt nghiệp phổ thông mà chưa hề ngồi ở phòng ăn bao giờ, nếu ngồi với con gái thế nào tôi cũng bị cười, ngồi với con trai thế nào cũng lại bị cười vì tôi là đứa con trai đáng lẽ phải ngồi với con gái.
I survived that childhood through a mix of avoidance and endurance. What I didn't know then and do know now, is that avoidance and endurance can be the entryway to forging meaning. After you've forged meaning, you need to incorporate that meaning into a new identity. You need to take the traumas and make them part of who you've come to be, and you need to fold the worst events of your life into a narrative of triumph, evincing a better self in response to things that hurt.
Tôi đi qua tuổi thơ ấy, vừa chịu đựng vừa lẩn tránh. Điều mà hồi đó tôi không biết, nhưng giờ thì biết, là lẩn tránh và chịu đựng có thể là cửa ngõ cho việc tôi luyện ý nghĩa. Sau khi đã tôi luyện, ta cần tìm cho ý nghĩa ấy một danh tính mới. Lấy cái đau đớn kia và biến nó thành một phần con người ta, gấp khúc những sự kiện tồi tệ nhất đời thành một câu chuyện về chiến thắng, trở thành một cá thể tốt hơn khi đối mặt với những điều gây tổn thương.
One of the other mothers I interviewed when I was working on my book had been raped as an adolescent, and had a child following that rape, which had thrown away her career plans and damaged all of her emotional relationships. But when I met her, she was 50, and I said to her, "Do you often think about the man who raped you?" And she said, "I used to think about him with anger, but now only with pity." And I thought she meant pity because he was so unevolved as to have done this terrible thing. And I said, "Pity?" And she said, "Yes, because he has a beautiful daughter and two beautiful grandchildren, and he doesn't know that, and I do. So as it turns out, I'm the lucky one."
Một bà mẹ khác mà tôi phỏng vấn trong quá trình viết cuốn sách của mình đã bị hiếp dâm từ hồi thiếu niên, và có con từ sau vụ hiếp dâm đó, vụ hiếp dâm đã phá huỷ những hoạch định sự nghiệp và làm hư hại những mối quan hệ tình cảm của bà ấy. Nhưng khi tôi gặp bà, bà đã 50 tuổi, tôi hỏi, "Chị có hay nghĩ về kẻ đã hiếp dâm mình không?" Bà ấy trả lời: "Tôi đã từng nghĩ đến hắn ta trong giận dữ, nhưng giờ chỉ là thương hại." Tôi nghĩ thương hại theo bà vì lão kia quá mọi rợ đến nỗi phải làm điều tệ hại thế kia. Tôi hỏi: "Thương hại à?" Và bà ta trả lời: "Vâng, vì gã kia có một đứa con gái đẹp và hai đứa cháu ngoại đẹp và gã không biết điều đó, trong khi tôi thì biết. Thành thử, tôi là người may mắn."
Some of our struggles are things we're born to: our gender, our sexuality, our race, our disability. And some are things that happen to us: being a political prisoner, being a rape victim, being a Katrina survivor. Identity involves entering a community to draw strength from that community, and to give strength there, too. It involves substituting "and" for "but" -- not "I am here but I have cancer," but rather, "I have cancer and I am here."
Một vài khó khăn là những thứ mà ta sinh ra đã có: giới tính, bản năng giới tính, chủng tộc, những khuyết tật. Và có những khó khăn xảy đến khi ta sống: là tù chính trị, nạn nhân của hiếp dâm, là người sống sót qua cơn bão Katrina. Danh tính liên quan tới việc bước vào một cộng đồng để lấy sức mạnh từ cộng đồng ấy, và tiếp sức ngược trở lại. Nó liên quan tới việc thay thế chữ "nhưng" bằng chữ "và" -- không phải là "Tôi ở đây nhưng tôi bị ung thư." mà là: "Tôi bị ung thư và tôi ở đây."
When we're ashamed, we can't tell our stories, and stories are the foundation of identity. Forge meaning, build identity. Forge meaning and build identity. That became my mantra. Forging meaning is about changing yourself. Building identity is about changing the world. All of us with stigmatized identities face this question daily: How much to accommodate society by constraining ourselves, and how much to break the limits of what constitutes a valid life? Forging meaning and building identity does not make what was wrong right. It only makes what was wrong precious.
Khi ta xấu hổ, ta không thể kể những câu chuyện của mình, và những câu chuyện chính là nền tảng của danh tính. Luyện nên ý nghĩa, xây dựng danh tính, Luyện nên ý nghĩa và xây dựng danh tính. Đó đã trở thành câu thần chú của tôi. Tôi luyện ý nghĩa là thay đổi bản thân. Xây dựng danh tính là thay đổi thế giới. Chúng ta, những kẻ có những danh tính bị bêu rếu ngày ngày đối mặt với câu hỏi: ta nhẫn nhịn xã hội đến nhường nào bằng cách kiềm chế bản thân và phá vỡ những giới hạn của những gì cấu thành một cuộc sống đúng đắn? Tôi luyện ý nghĩa và xây dựng danh tính không khiến cái sai lạc trở nên đúng đắn. Nó chỉ giúp những gì đã sai lạc trở nên quý giá.
In January of this year, I went to Myanmar to interview political prisoners, and I was surprised to find them less bitter than I'd anticipated. Most of them had knowingly committed the offenses that landed them in prison, and they had walked in with their heads held high, and they walked out with their heads still held high, many years later. Dr. Ma Thida, a leading human rights activist who had nearly died in prison and had spent many years in solitary confinement, told me she was grateful to her jailers for the time she had had to think, for the wisdom she had gained, for the chance to hone her meditation skills. She had sought meaning and made her travail into a crucial identity. But if the people I met were less bitter than I'd anticipated about being in prison, they were also less thrilled than I'd expected about the reform process going on in their country. Ma Thida said, "We Burmese are noted for our tremendous grace under pressure, but we also have grievance under glamour." She said, "And the fact that there have been these shifts and changes doesn't erase the continuing problems in our society that we learned to see so well while we were in prison."
Tháng một năm nay, tôi đi Myanmar phỏng vấn các tù chính trị, và tôi ngạc nhiên khi thấy họ không cay đắng như mình tưởng. Phần lớn họ đã cố ý phạm những tội khiến họ phải vào tù, họ bước vào tù với tư thế ngẩng cao đầu, và ra ngoài, nhiều năm sau đó với đầu ngẩng cao. Tiến sĩ Ma Thida, người đi đầu trong đấu tranh nhân quyền người đã suýt chết trong khám và đã trải qua nhiều năm bị biệt giam, nói rằng bà rất biết ơn những viên cai ngục vì thời gian mà bà đã có để suy ngẫm, vì sự khôn ngoan mà bà nhận được, vì cơ hội đào luyện những kỹ năng thiền của mình. Bà đã tìm kiếm ý nghĩa và biến cơn gian truân thành một phần danh tính cốt yếu. Nếu những người tôi gặp không cay đắng về chuyện ở tù như tôi đã nghĩ, thì họ lại cũng không sung sướng về cuộc chấn hưng ở đất nước mình như tôi đã nghĩ trước đó. Ma Thida nói, "Người Miên chúng tôi nổi tiếng về sự độ lượng khi chịu đựng áp lực, nhưng chúng tôi cũng có sự sầu thảm dưới ánh hào quang," bà nói: "Và những thay đổi đã diễn ra không xóa đi những vấn đề vẫn còn đang tiếp diễn trong xã hội mà chúng tôi nhìn thấy rất rõ ràng khi còn ở trong tù."
I understood her to be saying that concessions confer only a little humanity where full humanity is due; that crumbs are not the same as a place at the table. Which is to say, you can forge meaning and build identity and still be mad as hell.
Tôi hiểu ý bà, sự bàn giao chính quyền chỉ mang lại một chút nhân văn, trong khi người ta cần nó được vẹn toàn, lượm vụn bánh mì không giống như ngồi ăn trên bàn, điều này có nghĩa là bạn có thể tôi luyện ý nghĩa và xây dựng danh tính mà vẫn nổi cơn thịnh nộ.
I've never been raped, and I've never been in anything remotely approaching a Burmese prison. But as a gay American, I've experienced prejudice and even hatred, and I've forged meaning and I've built identity, which is a move I learned from people who had experienced far worse privation than I've ever known. In my own adolescence, I went to extreme lengths to try to be straight. I enrolled myself in something called "sexual surrogacy therapy," in which people I was encouraged to call doctors prescribed what I was encouraged to call exercises with women I was encouraged to call surrogates, who were not exactly prostitutes but who were also not exactly anything else.
Tôi chưa từng bị hãm hiếp, và chưa bao giờ trải qua điều gì tương tự với nhà tù Miến Điện, nhưng là một người Mỹ đồng tính, tôi đã nếm mùi định kiến thậm chí sự thù ghét, và tôi đã luyện nên ý nghĩa và xây dựng danh tính, một chuyển biến mà tôi đã học được từ những người đã kinh qua nỗi cô đơn tồi tệ hơn bất kì nỗi cô đơn nào mà tôi biết. Thời niên thiếu, tôi đã cố hết sức để trở nên một giai thẳng. Tôi đăng ký vào một chương trình gọi là liệu pháp tình dục thay thế, trong liệu pháp đó, những người mà tôi được khuyến khích gọi là bác sĩ kê cho tôi những thứ mà tôi được khuyến khích gọi là bài tập với người phụ nữ mà tôi được khuyến khích gọi là người thay thế, họ không hẳn là gái bán hoa nhưng chính xác cũng chả à cái gì khác.
(Laughter)
(Cười)
My particular favorite was a blonde woman from the Deep South who eventually admitted to me that she was really a necrophiliac, and had taken this job after she got in trouble down at the morgue.
Người mà tôi đặc biệt yêu thích, một phụ nữ tóc vàng đến từ miền Nam, đã lần hồi thú nhận với tôi chị là người có chứng loạn dâm với xác chết và đã đến nhận việc này sau khi gặp rắc rối tại nhà xác.
(Laughter)
(Cười)
These experiences eventually allowed me to have some happy physical relationships with women, for which I'm grateful. But I was at war with myself, and I dug terrible wounds into my own psyche.
Những trải nghiệm này dần dà cho phép tôi có được một vài mối quan hệ thể xác vui vẻ với đàn bà, tôi biết ơn về điều đó, nhưng tôi tranh chiến với bản thân, và đào những vết thương tinh thần tồi tệ cho chính mình.
We don't seek the painful experiences that hew our identities, but we seek our identities in the wake of painful experiences. We cannot bear a pointless torment, but we can endure great pain if we believe that it's purposeful. Ease makes less of an impression on us than struggle. We could have been ourselves without our delights, but not without the misfortunes that drive our search for meaning. "Therefore, I take pleasure in infirmities," St. Paul wrote in Second Corinthians, "for when I am weak, then I am strong."
Chúng ta không tìm đến những kinh nghiệm đau đớn khiến cho danh tính của mình bị đốn hạ, mà tìm lấy danh tính của mình sau những kinh nghiệm đau đớn. Chúng ta không thể chịu đau đớn một cách vô ích, nhưng chịu đựng chúng nếu tin rằng chúng xảy ra là có mục đích. Ấn tượng mà sự dễ dàng để lại cho chúng ta không mạnh mẽ bằng sự tranh chiến. Chúng ta có thể là chính mình dù không có niềm vui, nhưng không thể nếu không có những bất hạnh lôi ta vào cuộc tìm kiếm ý nghĩa. "Thế nên tôi tận hưởng sự yếu đuối," Sứ đồ Phao-lô viết trong sách Cô-rinh-tô Thứ Nhì, "vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ."
In 1988, I went to Moscow to interview artists of the Soviet underground. I expected their work to be dissident and political. But the radicalism in their work actually lay in reinserting humanity into a society that was annihilating humanity itself, as, in some senses, Russian society is now doing again. One of the artists I met said to me, "We were in training to be not artists but angels."
Năm 1988, tôi đến Moscow để phỏng vấn những họa sĩ hoạt động ngầm ở Liên Xô và đồ rằng tác phẩm của họ sẽ mang màu sắc chính trị chống đối. Nhưng sự cấp tiến trong tác phẩm của họ thực chất nằm ở việc đưa nhân tính trở lại xã hội đang tự mình hủy diệt nhân tính, như xã hội Nga hiện nay, về nhiều mặt, đang tái diễn nó. Một nghệ sĩ đã nói với tôi: "Chúng tôi đang đào luyện để trở thành, không phải nghệ sĩ, mà là thiên sứ."
In 1991, I went back to see the artists I'd been writing about, and I was with them during the putsch that ended the Soviet Union. And they were among the chief organizers of the resistance to that putsch. And on the third day of the putsch, one of them suggested we walk up to Smolenskaya. And we went there, and we arranged ourselves in front of one of the barricades, and a little while later, a column of tanks rolled up. And the soldier on the front tank said, "We have unconditional orders to destroy this barricade. If you get out of the way, we don't need to hurt you. But if you won't move, we'll have no choice but to run you down." The artist I was with said, "Give us just a minute. Give us just a minute to tell you why we're here." And the soldier folded his arms, and the artist launched into a Jeffersonian panegyric to democracy such as those of us who live in a Jeffersonian democracy would be hard-pressed to present. And they went on and on, and the soldier watched. And then he sat there for a full minute after they were finished and looked at us, so bedraggled in the rain, and said, "What you have said is true, and we must bow to the will of the people. If you'll clear enough space for us to turn around, we'll go back the way we came." And that's what they did. Sometimes, forging meaning can give you the vocabulary you need to fight for your ultimate freedom.
Năm 1991, tôi trở lại thăm các nghệ sĩ mà tôi đã viết về, và đã ở cùng với họ trong cuộc nổi dậy chấm dứt liên bang Xô Viết, và họ là những người đầu sỏ chống lại cuộc nổi dậy đó. Ngày thứ ba của cuộc nổi dậy, một trong số họ gợi ý đi quảng trường Smolenskaya. Chúng tôi tới đó, và ngồi trước một chướng ngại vật, một lúc sau, một đoàn tăng chạy đến, và người lính trên chiếc xe tăng đi đầu nói: "Chúng tôi nhận mệnh lệnh phải hủy diệt chướng ngại vật này. Nếu các anh tránh đường, chúng tôi sẽ không làm các anh bị thương, nếu không, chúng tôi sẽ không có lựa chọn nào ngoài việc ủi các anh." Những nghệ sĩ đi cùng tôi nói: "Cho chúng tôi một phút thôi. Xin cho một phút thôi để giải thích tại sao chúng tôi ở đây." Người lính khoanh tay lại, và người nghệ sĩ bắt đầu một bản tán tụng dân chủ kiểu Jefferson mà chúng ta, những người sống trong một nền dân chủ kiểu Jefferson, cũng cảm thấy khó để xướng lên. Họ thao thao bất tuyệt, và người lính quan sát, sau khi họ nói xong anh ta còn ngồi đó một phút nhìn lũ chúng tôi ướt như chuột lột, anh nói: "Cái các anh vừa nói là đúng, và chúng ta cần tôn trọn ý nguyện của nhân dân. Nếu các anh dọn đủ chỗ để bọn tôi quay đầu, chúng tôi sẽ quay đầu lại." Và họ đã làm vậy đấy. Đôi khi, tôi luyện ý nghĩa cho ta từ vựng cần thiết để đấu tranh cho tự do tuyệt đối của mình.
Russia awakened me to the lemonade notion that oppression breeds the power to oppose it. And I gradually understood that as the cornerstone of identity. It took identity to rescue me from sadness. The gay rights movement posits a world in which my aberrances are a victory. Identity politics always works on two fronts: to give pride to people who have a given condition or characteristic, and to cause the outside world to treat such people more gently and more kindly. Those are two totally separate enterprises, but progress in each sphere reverberates in the other. Identity politics can be narcissistic. People extol a difference only because it's theirs. People narrow the world and function in discrete groups without empathy for one another. But properly understood and wisely practiced, identity politics should expand our idea of what it is to be human. Identity itself should be not a smug label or a gold medal, but a revolution.
Nước Nga khiến tôi tỉnh thức về ý niệm nước chanh cho rằng áp bức tạo ra sức mạnh chống lại chính nó, và tôi đã lần hồi hiểu đó là nền tảng của danh tính. Danh tính đã cứu tôi khỏi sự buồn thảm. Cuộc vận động vì quyền đồng tính đã ấn định một thế giới mà ở đó, lầm lạc của tôi là chiến thắng. Chính trị danh tính luôn vận hành ở hai mặt trận: trao tự hào cho những người có hoàn cảnh hoặc tính chất đặc biệt nào đó, và khiến cho thế giới bên ngoài đối xử với những con người ấy dịu dàng hơn, tốt bụng hơn. Đây là hai công cuộc riêng, nhưng tiến trình trong mỗi phạm trù ảnh hưởng lẫn nhau. Chính trị danh tính có thể mang tính tự mãn. Người ta tán dương sự khác biệt bởi đó là khác biệt của họ. Người ta thu hẹp thế giới và hoạt động trong những nhóm riêng lẻ mà không thông cảm cho nhau. Nhưng khi được hiểu đúng và thực hiện một cách khôn ngoan, chính trị danh tính mở rộng đến ý niệm của chúng ta về việc làm người. Danh tính tự nó không nên là một mẫu mã chảnh chọe hay một huy chương vàng mà là một cuộc cách mạng.
I would have had an easier life if I were straight, but I would not be me. And I now like being myself better than the idea of being someone else, someone who, to be honest, I have neither the option of being nor the ability fully to imagine. But if you banish the dragons, you banish the heroes, and we become attached to the heroic strain in our own lives. I've sometimes wondered whether I could have ceased to hate that part of myself without gay pride's technicolor fiesta, of which this speech is one manifestation.
Tôi sẽ sống một đời sống dễ dàng hơn nếu là giai thẳng, nhưng tôi sẽ không được là chính tôi, và giờ tôi thích là chính mình hơn là một người khác, một người mà, thành thực mà nói, tôi không có lựa chọn để trở thành hay khả năng để tượng tượng ra một cách đầy đủ. Nếu xua đi những con rồng, ta cũng xua đi những vị anh hùng, và chúng ta ràng buộc cuộc đời mình vào dòng dõi anh hùng. Tôi đã đôi lần tự hỏi liệu tôi đã có thể dừng ghét phần đó của mình nếu không có ngày hội đa sắc của người đồng tính, được thể hiện qua bài diễn văn này.
(Laughter)
Tôi từng nghĩ mình sẽ là người trưởng thành
I used to think I would know myself to be mature when I could simply be gay without emphasis. But the self-loathing of that period left a void, and celebration needs to fill and overflow it, and even if I repay my private debt of melancholy, there's still an outer world of homophobia that it will take decades to address. Someday, being gay will be a simple fact, free of party hats and blame. But not yet. A friend of mine who thought gay pride was getting very carried away with itself, once suggested that we organize Gay Humility Week.
khi biết làm người đồng tính mà không to tiếng, nhưng sự gớm ghiếc bản thân từ thời kỳ kia đã để lại khoảng trống, và cần sự hoan hỉ để đổ đầy tràn khoảng trống ấy, kể cả khi tôi đã trả xong món nợ u sầu, ngoài kia vẫn còn một thế giới kỳ thị người đồng tính cần hàng thập kỷ nữa để giải quyết. Một ngày kia, đồng tính nam sẽ là một hiện thực đơn giản, thoát khỏi những bêu rếu, nhưng giờ thì chưa phải. Một bạn của tôi, người cho rằng sự cao ngạo của người đồng tính đang đi quá trớn, một lần nọ đã đề xuất tổ chức
(Laughter)
Tuần Đồng tính Khiêm tốn
(Applause)
(Cười) (Vỗ tay)
It's a great idea.
Ý tưởng tuyệt vời,
(Laughter)
nhưng chưa đến lúc thực hiện.
But its time has not yet come.
(Laughter)
(Cười)
And neutrality, which seems to lie halfway between despair and celebration, is actually the endgame.
Và sự trung hòa, cái dường như ở giũa tuyệt vọng và hoan hỉ, là nước đi cuối cùng.
In 29 states in the US, I could legally be fired or denied housing for being gay. In Russia, the anti-propaganda law has led to people being beaten in the streets. Twenty-seven African countries have passed laws against sodomy. And in Nigeria, gay people can legally be stoned to death, and lynchings have become common. In Saudi Arabia recently, two men who had been caught in carnal acts were sentenced to 7,000 lashes each, and are now permanently disabled as a result. So who can forge meaning and build identity? Gay rights are not primarily marriage rights, and for the millions who live in unaccepting places with no resources, dignity remains elusive. I am lucky to have forged meaning and built identity, but that's still a rare privilege. And gay people deserve more, collectively, than the crumbs of justice.
Tại 29 bang ở Mỹ, tôi có thể bị đuổi việc hay từ chối đăng ký nhà ở vì là người đồng tính. Ở Nga, luật chống tuyên truyền đã dẫn đến việc người ta bị đánh đập trên đường. Hai mươi bảy nước châu Phi đã thông qua đạo luật cấm giao hợp hậu môn, và ở Nigeria, người đồng tính nam có thể bị ném đá đến chết, và việc xét xử không tòa án đã trở nên phổ biến. Ở Saudi Arabia, hai người đàn ông bị bắt quả tang đang làm chuyện đồi bại, đã bị quất 7000 roi mỗi người, và bị khuyết tật vĩnh viễn. Vậy làm thế có thể luyện nên ý nghĩa và xây dựng danh tính được cơ chứ ? Quyền đồng tính không phải là quyền hôn phối, và với hàng triệu người đang ở những nơi không ai chấp nhận mà không có nguồn giúp đỡ nào, phẩm giá vẫn còn là điều lờ mờ, khó hiểu. Tôi may mắn đã tôi luyện được ý nghĩa và xây dựng danh tính của mình. Nhưng đó vẫn là một đặc ân hiếm hoi, và người đồng tính xứng đáng có được công lý chung hơn là những mảnh vụn của công lý.
And yet, every step forward is so sweet. In 2007, six years after we met, my partner and I decided to get married. Meeting John had been the discovery of great happiness and also the elimination of great unhappiness. And sometimes, I was so occupied with the disappearance of all that pain, that I forgot about the joy, which was at first the less remarkable part of it to me. Marrying was a way to declare our love as more a presence than an absence.
Dầu vậy, mỗi bước tiến về phía trước vẫn là điều tốt đẹp. Năm 2007, sau sáu năm quen biết, chồng tôi và tôi quyết định kết hôn. Gặp được John là sự khám phá một niềm vui lớn lao và cũng là sự xóa bỏ của một niềm không vui lớn, đôi khi, tôi suy nghĩ nhiều về sự biến mất của nỗi đau ấy đến nỗi quên luôn cả niềm vui, vốn lúc đầu là phần không đáng kể lắm. Cưới là cách để tuyên bố tình yêu của chúng ta hiện diện chứ không khuất mặt.
Marriage soon led us to children, and that meant new meanings and new identities -- ours and theirs. I want my children to be happy, and I love them most achingly when they are sad. As a gay father, I can teach them to own what is wrong in their lives, but I believe that if I succeed in sheltering them from adversity, I will have failed as a parent. A Buddhist scholar I know once explained to me that Westerners mistakenly think that nirvana is what arrives when all your woe is behind you, and you have only bliss to look forward to. But he said that would not be nirvana, because your bliss in the present would always be shadowed by the joy from the past. Nirvana, he said, is what you arrive at when you have only bliss to look forward to and find in what looked like sorrows the seedlings of your joy. And I sometimes wonder whether I could have found such fulfillment in marriage and children if they'd come more readily, if I'd been straight in my youth or were young now, in either of which cases this might be easier. Perhaps I could. Perhaps all the complex imagining I've done could have been applied to other topics. But if seeking meaning matters more than finding meaning, the question is not whether I'd be happier for having been bullied, but whether assigning meaning to those experiences has made me a better father. I tend to find the ecstasy hidden in ordinary joys, because I did not expect those joys to be ordinary to me.
Hôn nhân đã đưa chúng tôi đến con cái, có nghĩa là có những ý nghĩa mới và những danh tính mới, cho chúng tôi, cho các cháu. Tôi muốn các con vui, Và tôi thương đến thắt ruột khi các cháu buồn. Là một ông bố đồng tính, tôi có thể dạy các cháu sở hữu những gì bị coi là sai lạc trong cuộc sống, nhưng tôi tin nếu mình thàng công trong việc che chở các con khỏi nghịch cảnh, tôi sẽ thất bại trong việc làm cha. Một học giả Phật giáo đã giải thích cho tôi rằng người phương Tây thường suy nghĩ sai lầm rằng niết bàn là cái xảy đến khi thù nghịch đã ở lại sau lưng và ta chỉ việc chờ đón khoái lạc. Đó không phải là niết bàn, bởi khoái lạc trong hiện tại sẽ luôn bị lu mờ bởi niềm vui trong quá khứ. Niết bàn, ông nói, là cái mà ta đạt đến khi chỉ còn khoái lạc để mong chờ và tìm những hạt giống của niềm vui trong cái trông giống như nỗi buồn. Đôi khi tôi tự hỏi liệu mình có thể tìm được sự mãn nguyện ấy trong hôn nhân và con cái nếu những thứ ấy có lẽ đã đến một cách dễ dàng hơn, nếu tôi là giai thẳng hay còn trai trẻ, ở bất cứ trường hợp nào, điều trên sẽ là dễ thực hiện hơn. Có lẽ tôi có thể. Có lẽ những tưởng tượng phức tạp mà tôi có có thể đã được áp dụng vào những lĩnh vực khác. Nhưng nếu việc tìm kiếm ý nghĩa quan trọng hơn việc tìm ra ý nghĩa, thì câu hỏi không phải là liệu tôi đã có thể vui hơn vì bị bắt nạt, mà là, liệu việc gán ý nghĩa cho những trải nghiệm đó có khiến tôi trở thành một người cha tốt hơn. Tôi thường tìm thấy khoái lạc trong những niềm vui tầm thường, vì tôi không coi những niềm vui ấy là tầm thường với mình.
I know many heterosexuals who have equally happy marriages and families, but gay marriage is so breathtakingly fresh, and gay families so exhilaratingly new, and I found meaning in that surprise.
Tôi biết nhiều người dị tính có hôn nhân và gia đình hạnh phúc như tôi, nhưng hôn nhân đồng tính là một thứ hết sức mới mẻ và những gia đình đồng tính quá đỗi mới lạ, và tôi tìm thấy ý nghĩa trong sự ngạc nhiên đó.
In October, it was my 50th birthday, and my family organized a party for me. And in the middle of it, my son said to my husband that he wanted to make a speech. And John said, "George, you can't make a speech. You're four."
Tôi mừng sinh nhật tuổi 50 hồi tháng Mười, gia đình tôi chức một bữa tiệc cho tôi, và giữa buổi tiệc, con trai tôi nói với chồng tôi rằng nó muốn phát biểu một bài, và John nói: "George, con không được đọc diễn văn. Con mới có bốn tuổi."
(Laughter)
(Cười)
"Only Grandpa and Uncle David and I are going to make speeches tonight." But George insisted and insisted, and finally, John took him up to the microphone, and George said very loudly, "Ladies and gentlemen! May I have your attention, please?" And everyone turned around, startled. And George said, "I'm glad it's daddy's birthday. I'm glad we all get cake. And Daddy, if you were little, I'd be your friend."
"Chỉ ông, bác David và bố mới đọc diễn văn tối nay thôi." Nhưng George năn nỉ, và cuối cùng, John đưa nó lên micro, George nói dõng dạc: "Thưa quý ông, quý bà, làm ơn chú ý lắng nghe." Mọi người ngạc nhiên quay ra. George phát biểu: "Cháu rất vui vì hôm nay là sinh nhật bố. Cháu vui vì tất cả được ăn bánh. Và bố ạ, nếu bố còn nhỏ, con sẽ là bạn của bố."
(Gasp)
And I thought -- (Applause) Thank you. I thought that I was indebted even to Bobby Finkel, because all those earlier experiences were what had propelled me to this moment, and I was finally unconditionally grateful for a life I'd once have done anything to change.
Và tôi nghĩ - Cảm ơn con. Tôi nghĩ tôi mắc nợ cả Bobby Finkle, vì tất cả những trải nghiệm trước đó đã mang đến cho tôi giờ khắc này, và cuối cùng tôi biết ơn vô điều kiện cuộc đời mà trước đó tôi đã làm tất cả để cố gắng thay đổi.
The gay activist Harvey Milk was once asked by a younger gay man what he could do to help the movement, and Harvey Milk said, "Go out and tell someone." There's always somebody who wants to confiscate our humanity. And there are always stories that restore it. If we live out loud, we can trounce the hatred, and expand everyone's lives.
Nhà hoạt động đồng tính Harvey Milk, một lần được phỏng vấn bởi một người đồng tính nam trẻ rằng anh ta cần làm gì để giúp đỡ cuộc vận động, và Harvey Milk trả lời: "Hãy đi và nói với ai đó." Luôn có ai đó muốn tịch thu nhân tính của chúng ta, nhưng luôn luôn có những câu chuyện để phục hồi. Nếu chúng ta sống đúng với chính mình, ta có thể đánh bại sự thù ghét và làm giàu thêm cuộc sống của mọi người
Forge meaning. Build identity. Forge meaning. Build identity. And then invite the world to share your joy.
Tôi luyện ý nghĩa. Xây dựng danh tính. Tôi luyện ý nghĩa. Xây dựng danh tính. Và hãy mời thế giới chung vui.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Cảm ơn. (Vỗ tay)
(Applause)
Cảm ơn. (Vỗ tay)
Thank you.
(Applause)
Thank you.
(Applause)