The writer George Eliot cautioned us that, among all forms of mistake, prophesy is the most gratuitous. The person that we would all acknowledge as her 20th-century counterpart, Yogi Berra, agreed. He said, "It's tough to make predictions, especially about the future."
Nhà văn George Elipt đã cảnh báo chúng ta rằng, trong tất cả những loại sai lầm sự tiên đoán là sai lầm vô nghĩa nhất Người mà chúng ta có lẽ đều biết đến như một bản sao của bà ở thế kỉ 20, Yogi Berra ,đồng ý thế Ông ta nói rằng,"Thật khó mà tiên đoán đặc biệt là về tương lai."
I'm going to ignore their cautions and make one very specific forecast. In the world that we are creating very quickly, we're going to see more and more things that look like science fiction, and fewer and fewer things that look like jobs. Our cars are very quickly going to start driving themselves, which means we're going to need fewer truck drivers. We're going to hook Siri up to Watson and use that to automate a lot of the work that's currently done by customer service reps and troubleshooters and diagnosers, and we're already taking R2D2, painting him orange, and putting him to work carrying shelves around warehouses, which means we need a lot fewer people to be walking up and down those aisles.
Tôi sẽ bỏ qua sự cẩn trọng của họ và đưa ra một dự đoán rất cụ thể. Trong thế giới mà chúng ta đang tạo dựng một cách nhanh chóng, chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều thứ trông như khoa học viễn tưởng, và thấy càng ngày ít những thứ giống như việc làm. Xe của chúng ta sẽ sớm tự lái được thôi có nghĩa là chúng ta sẽ cần ít tài xế xe tải hơn Chúng ta sẽ hợp nhất 2 ứng dụng Siri và Watson và dùng nó để tự động hoá nhiều công việc mà đang được làm bởi nhân viên dịch vụ chăm sóc khách hàng những phần mềm dò lỗi và chuẩn đoán lỗi máy tính và chúng ta đang sử dụng người máy R2D2 sơn nó màu cam và bắt nó làm việc di chuyển tầng kệ giữa những kho hàng, điều đó có nghĩa là chúng ta cần ít người hơn rất nhiều đi lên đi xuống những dãy hành lang đó.
Now, for about 200 years, people have been saying exactly what I'm telling you -- the age of technological unemployment is at hand — starting with the Luddites smashing looms in Britain just about two centuries ago, and they have been wrong. Our economies in the developed world have coasted along on something pretty close to full employment.
Và khoảng 200 năm qua mọi người đang nói chính xác những gì tôi đang nói với các bạn thời đại của sự thất nghiệp bởi công nghệ đang đến gần-- bắt đầu bởi những đoàn thợ bức xúc đập phá các khung dệt vải ở Anh khoảng hai thế kỉ trước, và họ đã sai. Nền kinh tế của chúng ta trong thế giới phát triển này đã bám theo một điều gì đó gần giống với việc làm
Which brings up a critical question: Why is this time different, if it really is? The reason it's different is that, just in the past few years, our machines have started demonstrating skills they have never, ever had before: understanding, speaking, hearing, seeing, answering, writing, and they're still acquiring new skills. For example, mobile humanoid robots are still incredibly primitive, but the research arm of the Defense Department just launched a competition to have them do things like this, and if the track record is any guide, this competition is going to be successful. So when I look around, I think the day is not too far off at all when we're going to have androids doing a lot of the work that we are doing right now. And we're creating a world where there is going to be more and more technology and fewer and fewer jobs. It's a world that Erik Brynjolfsson and I are calling "the new machine age."
điều mang đến một câu hỏi chủ chốt: nếu thật sự là vậy thì sao thời đại này nó lại khác? Lý do nó khác biệt là chỉ trong những năm lại đây, máy móc của chúng ta bắt đầu trình diễn những kĩ năng mà chúng chưa hề có trước đây: khả năng hiểu, nói , nghe, nhìn, trả lời, viết, và chúng vẫn đang trau dồi những kĩ năng mới Ví dụ như là nhưng con rô bốt hình người di động vẫn còn rất nguyên thủy nhưng đội ngũ nghiên cứu của bộ quốc phòng vừa tổ chức một cuộc thi khiến chúng làm những việc như thế này và nếu đoạn phim được ghi lại này mang bất kì hàm ý hướng dẫn nào thì nó cũng chỉ ra rằng cuộc thi này sẽ diễn ra thành công Vậy nên khi nhìn xung quanh, tôi nghĩ ngày đó sẽ không xa xôi Khi mà chúng ta sẽ có những người máy làm nhiều loại công việc mà chúng ta đang làm hiện nay Chúng ta đang tạo dựng một thế giới mà sẽ có ngày càng nhiều công nghệ và ngày càng ít công việc. Đó là thế giới mà Erik Brynjolfsson và tôi gọi là "Tân kỉ nguyên máy móc"
The thing to keep in mind is that this is absolutely great news. This is the best economic news on the planet these days. Not that there's a lot of competition, right? This is the best economic news we have these days for two main reasons. The first is, technological progress is what allows us to continue this amazing recent run that we're on where output goes up over time, while at the same time, prices go down, and volume and quality just continue to explode. Now, some people look at this and talk about shallow materialism, but that's absolutely the wrong way to look at it. This is abundance, which is exactly what we want our economic system to provide. The second reason that the new machine age is such great news is that, once the androids start doing jobs, we don't have to do them anymore, and we get freed up from drudgery and toil.
Nhưng nên nhớ một điều rằng đây là tin hoàn toàn tuyệt vời. Đây là tin về nền kinh tế tốt đẹp trên hành tinh này hiện nay Chứ không phải sẽ là rất nhiều sự cạnh tranh, đúng không? Đây là tin tốt nhất về kinh tế chúng ta có hiện nay vì 2 lí do chính Thứ nhất là, sự tiến bộ của công nghệ cho phép chúng ta tiếp tục cuộc hành trình mà chúng ta thực hiện mới đây Khi mà sản lượng tăng lên theo thời gian cùng lúc đó, giá cả giảm xuống khối lượng và chất lượng tiếp tục tăng lên Ngày nay, một số người nhìn vào đây và bàn luận về chủ nghĩa duy vật nông cạn nhưng đó hoàn toàn sai lạc khi quan sát nó theo cách đó Đây là sự dư dật, Đó chính xác là điều chúng ta mong muốn hệ thống kinh tế đem lại Lí do thứ hai mà tân kỉ nguyên máy móc là tin tốt lành đến như vậy là vì, một khi người máy bắt đầu cáng đáng công việc, chúng ta không phải làm những việc đó nữa chúng ta được giải phóng khỏi sự lao dịch và công việc cực nhọc
Now, when I talk about this with my friends in Cambridge and Silicon Valley, they say, "Fantastic. No more drudgery, no more toil. This gives us the chance to imagine an entirely different kind of society, a society where the creators and the discoverers and the performers and the innovators come together with their patrons and their financiers to talk about issues, entertain, enlighten, provoke each other." It's a society really, that looks a lot like the TED Conference. And there's actually a huge amount of truth here. We are seeing an amazing flourishing taking place. In a world where it is just about as easy to generate an object as it is to print a document, we have amazing new possibilities. The people who used to be craftsmen and hobbyists are now makers, and they're responsible for massive amounts of innovation. And artists who were formerly constrained can now do things that were never, ever possible for them before. So this is a time of great flourishing, and the more I look around, the more convinced I become that this quote, from the physicist Freeman Dyson, is not hyperbole at all. This is just a plain statement of the facts. We are in the middle of an astonishing period.
Khi tôi nói chuyện này với những người bạn của mình tại Cambridge và thung lũng Silicon. Họ nói "Tuyệt vời. Không còn vất vả, không còn sự cực nhọc. Điều này mang đến cho chúng ta cơ hội để tưởng tượng một kiểu xã hội hoàn toàn khác, nơi mà những nhà chế tạo và nhà khám phá những người thực hiện và người cải tiến ngồi lại cùng nhau cùng với những nhà bảo trợ và những nhà hỗ trợ tài chính bàn luận về các vấn đề, trao đổi, làm rõ khuyến khích lẫn nhau." Đó là một xã hội thực sự rất giống với Hội Nghị TED Thực sự có một lượng sự thật rất lớn tại đây Chúng ta đang chứng kiến một sự khởi đầu phồn thịnh đầy kinh ngạc Trong một thế giới mà việc tạo ra một vật thể cũng dễ dàng như việc in ra một tài liệu chúng ta có những khả năng mới đáng kinh ngạc Những người từng là thợ thủ công hay là người có tài lẻ trở thành những ngườ chế tạo, và họ là những người chịu trách nhiệm cho hàng loạt những cải tiến trên diện rộng Những nghệ sỹ từng bị giới hạn nay có thể làm những điều mà chưa bao giờ khả thi với họ như trước đây. Đây là thời điểm cho sự thịnh vượng tuyệt vời tôi quan sát xung quanh càng nhiều thì càng bị thuyết phục rằng, câu nói này, từ nhà vật lí học Freeman Dyson, không cường điệu chút nào Đây chỉ là sự trình bày ngay thẳng về sự thật. Chúng ta đang ở ngay trong thời kì đầy sửng sốt.
["Technology is a gift of God. After the gift of life it is perhaps the greatest of God's gifts. It is the mother of civilizations, of arts and of sciences." — Freeman Dyson]
[" Công nghệ là món quà từ Thượng Đế. Sau món quà sự sống thì có lẽ, nó là món quà tuyệt vời nhất từ Thượng Đế. Nó là mẹ đẻ của các nền văn minh, của nghệ thuật và khoa học,"--Freeman Dyson]
Which brings up another great question: What could possibly go wrong in this new machine age? Right? Great, hang up, flourish, go home. We're going to face two really thorny sets of challenges as we head deeper into the future that we're creating.
Điều này đưa đến một câu hỏi tuyệt vời khác: Tân kỉ nguyên máy móc này có gì bất ổn? Phải vầy không nhỉ? Tuyệt, treo lên đó, phát triển, rồi về nhà. Chúng ta sẽ đối mặt với hai dạng thử thách gai góc khi tiến vào sâu hơn cái tương lai mà mình đang tạo dựng
The first are economic, and they're really nicely summarized in an apocryphal story about a back-and-forth between Henry Ford II and Walter Reuther, who was the head of the auto workers union. They were touring one of the new modern factories, and Ford playfully turns to Reuther and says, "Hey Walter, how are you going to get these robots to pay union dues?" And Reuther shoots back, "Hey Henry, how are you going to get them to buy cars?"
Thử thách đầu tiên là nền kinh tế, Chúng thực sự được tóm tắt rất mạch lạc trong một câu chuyện về màn đấu khẩu qua lại chưa được xác minh giữa Henry Ford II và Walter Reuther, Ngươi từng là đầu não của công đoàn công nhân ngành xe hơi Khi họ đang tham quan một trong những nhà máy mới hiện đại Ford quay về phía Reuther đùa giỡn nói rằng "Này Walter, ông làm thế nào để mấy con rô bốt này đóng góp công đoàn phí?" Và Reuther đáp trả," này Henry, Ông làm thế nào để khiến chúng mua xe hơi?"
Reuther's problem in that anecdote is that it is tough to offer your labor to an economy that's full of machines, and we see this very clearly in the statistics. If you look over the past couple decades at the returns to capital -- in other words, corporate profits -- we see them going up, and we see that they're now at an all-time high. If we look at the returns to labor, in other words total wages paid out in the economy, we see them at an all-time low and heading very quickly in the opposite direction.
Vấn đề của Reuther nằm trong giai thoại đó là rất khó khăn để đưa công lao động vào nền kinh tế đầy máy móc Chúng ta thấy rõ những điều này qua các số liệu thống kê. Nếu như bạn xem xét về tỉ suất lợi nhuận trên giá thành trong hai thập kỉ vừa qua nói cách khác là lợi nhuận của công ty chúng đang đi lên, và hiện nay lúc nào chúng cũng ở mức cao. Nếu chúng ta xem xét tỉ suất lợi nhuận trên công lao động nói cách khác là tổng tiền công trả ra trong nền kinh tế Chúng lúc nào cũng ở mức thấp đang tiến nhanh theo hướng ngược lại.
So this is clearly bad news for Reuther. It looks like it might be great news for Ford, but it's actually not. If you want to sell huge volumes of somewhat expensive goods to people, you really want a large, stable, prosperous middle class. We have had one of those in America for just about the entire postwar period. But the middle class is clearly under huge threat right now. We all know a lot of the statistics, but just to repeat one of them, median income in America has actually gone down over the past 15 years, and we're in danger of getting trapped in some vicious cycle where inequality and polarization continue to go up over time.
Đây rõ ràng là tin xấu cho Reuther. Nhưng dường như lại là tin tốt lành cho Ford, nhưng thực tế không phải vậy. Nếu bạn muốn bán với số lượng lớn món hàng đắt tiền nào đó cho mọi người thì bạn thực sự mong muốn có một tầng lớp trung lưu lớn, ổn định và phát đạt Chúng ta đã có một trong những tầng lớp đó tại Mỹ nhưng chỉ trong suốt thời kì hậu chiến thôi. Nhưng tầng lớp trung lưu rõ ràng đang bị đe doạ nghiêm trọng Chúng ta đều biết nhiều về số liệu thống kê, nhưng hãy chỉ nhắc lại một trong số đó thu nhập trung bình tại Mỹ thực sự đang giảm xuống trong vòng 15 năm qua, Chúng ta đang có nguy cơ bị mắc bẫy trong cái vòng luẩn quẩn khắc nghiệt khi mà sự bất bình đẳng và trạng thái phân cực tiếp tục tăng lên theo thời gian
The societal challenges that come along with that kind of inequality deserve some attention. There are a set of societal challenges that I'm actually not that worried about, and they're captured by images like this. This is not the kind of societal problem that I am concerned about. There is no shortage of dystopian visions about what happens when our machines become self-aware, and they decide to rise up and coordinate attacks against us. I'm going to start worrying about those the day my computer becomes aware of my printer.
Những thách thức xã hội mà đi cùng với sự bất bình đẳng xã hội đó xứng đáng có được sự lưu tâm của mọi người Có một tập hợp những dạng thách thức xã hội mà tôi thực sự không lo lắng, chúng được thu thập bằng hình ảnh như thế này. Đây không phải là một dạng vấn đề xã hội mà tôi lo ngại. Không có những khiếm khuyết của những tầm nhìn sai lạc về điều xảy đến khi máy móc trở lên tự nhận thức, chúng quyết định nổi dậy và hợp tác với nhau tấn công chúng ta. TÔi sẽ lo lắng đến những điều đó nếu có ngày cái máy tính của tôi nhận ra được cái máy in
(Laughter) (Applause)
(Cười) (Vỗ tay)
So this is not the set of challenges we really need to worry about. To tell you the kinds of societal challenges that are going to come up in the new machine age, I want to tell a story about two stereotypical American workers. And to make them really stereotypical, let's make them both white guys. And the first one is a college-educated professional, creative type, manager, engineer, doctor, lawyer, that kind of worker. We're going to call him "Ted." He's at the top of the American middle class. His counterpart is not college-educated and works as a laborer, works as a clerk, does low-level white collar or blue collar work in the economy. We're going to call that guy "Bill."
Đây không phải là tập hợp những thách thức mà chúng ta phải thực sự lo lắng Để nói với các bạn về những dạng thách thức xã hội sẽ xảy đến trong Tân kỉ nguyên máy móc, Tôi muốn kể với các bạn một câu chuyện về hai dạng lao động Mỹ khuôn mẫu và để khiến họ trông thực sự như khuôn mẫu hãy chọn hai anh chàng da trắng. Anh chàng thứ nhất tốt nghiệp cao đẳng chuyên nghiệp, mẫu ngừơi sáng tạo, là giám đốc kỹ sư, bác sỹ, luật sư, những dạng lao động này. Hãy gọi anh ta là "Ted" Anh ta thuộc hạng trên cùng trong tầng lớp trung lưu. ngừơi đối lập với anh ta không tốt nghiệp cao đẳng làm việc như người làm công, như một thư kí làm những công việc văn phòng vặt vãnh trong nền kinh tế Chúng ta sẽ gọi anh ta là "Bill"
And if you go back about 50 years, Bill and Ted were leading remarkably similar lives. For example, in 1960 they were both very likely to have full-time jobs, working at least 40 hours a week. But as the social researcher Charles Murray has documented, as we started to automate the economy, and 1960 is just about when computers started to be used by businesses, as we started to progressively inject technology and automation and digital stuff into the economy, the fortunes of Bill and Ted diverged a lot. Over this time frame, Ted has continued to hold a full-time job. Bill hasn't. In many cases, Bill has left the economy entirely, and Ted very rarely has. Over time, Ted's marriage has stayed quite happy. Bill's hasn't. And Ted's kids have grown up in a two-parent home, while Bill's absolutely have not over time. Other ways that Bill is dropping out of society? He's decreased his voting in presidential elections, and he's started to go to prison a lot more often. So I cannot tell a happy story about these social trends, and they don't show any signs of reversing themselves. They're also true no matter which ethnic group or demographic group we look at, and they're actually getting so severe that they're in danger of overwhelming even the amazing progress we made with the Civil Rights Movement.
Nếu bạn quay ngược lại 50 năm trước, Bill and Ted có cuộc sống rất giống nhau. Ví dụ, tại năm 1960 họ đều có khả năng làm công việc giống nhau làm việc toàn thời gian, ít nhất 40 giờ một tuần Theo những gì nhà nghiên cứu xã hội Charles Murray đã thu thập được khi chúng ta tự động hoá nền kinh tế, trong năm 1960 máy tính sắp bắt đầu được sử dụng trong các ngành kinh doanh khi chúng ta bắt đầu dần dần đưa công nghệ sự tự động hoá và kỹ thuật số vào nền kinh tế, Vận may của Bill & Ted phân rẽ rất lớn. Theo thời gian, Ted tiếp tục giữ được công việc toàn thời gian. Trong nhiều trường hợp Bill đã hoàn toàn rời khỏi nền kinh tế Ted thì rất hiếm khi bị vậy. Theo thời gian, cuộc hôn nhân của Ted vẫn hạnh phúc Nhưng của Bill thì không. Và con của Ted được trưởng thành trong một gia đình đầy đủ bố mẹ Trong khi con của Bill thì không được vậy Trong những trường hợp khác, có lẽ nào Bill bị đánh bật ra khỏi xã hội? Anh ta thôi không đi bầu cử Tổng Thống nữa và bắt đầu bị vào tù thường xuyên hơn. Vậy nên tôi không thể kể một câu chuyện có hậu về những khuynh hướng xã hội này Chúng không có một dấu hiệu nào về việc tự đảo chiều Chúng cũng đúng trong trường hợp là Không kể đến nhóm dân tộc hay nhóm nhân khẩu nào chúng ta xem xét chúng thực sự ngày càng thêm nghiêm trọng chúng đang có nguy cơ bị lấn áp bất kể đến những tiến bộ đáng kinh ngạc về Phong Trào Quyền Công Dân chúng ta đã đạt được
And what my friends in Silicon Valley and Cambridge are overlooking is that they're Ted. They're living these amazingly busy, productive lives, and they've got all the benefits to show from that, while Bill is leading a very different life. They're actually both proof of how right Voltaire was when he talked about the benefits of work, and the fact that it saves us from not one but three great evils.
Và điều mà những người bạn của tôi ở Thung lũng Silicon và Cambridge đang xem nhẹ đó là: Họ chính là Ted. Họ đang sống cuộc sống cực kì bận rộn và hữu ích Họ đạt được những phúc lợi để chứng minh điều đó trong khi Bill đang sống một suộc đời rất khác Họ thực sự là hai bằng chứng cho việc Voltaire đã đúng như thế nào khi ông nói về những phúc lợi của công việc Thực tế là nó bảo vệ chúng ta không những khỏi 1 nhưng là 3 điều xấu
["Work saves a man from three great evils: boredom, vice and need." — Voltaire]
["CÔng việc bảo vệ con người khỏi 3 điều xấu: Chán nản, Tật xấu và đòi hỏi."--Voltaire]
So with these challenges, what do we do about them?
Vậy chúng ta phải làm gì với những thách thức này đây?
The economic playbook is surprisingly clear, surprisingly straightforward, in the short term especially. The robots are not going to take all of our jobs in the next year or two, so the classic Econ 101 playbook is going to work just fine: Encourage entrepreneurship, double down on infrastructure, and make sure we're turning out people from our educational system with the appropriate skills.
Cuốn sách chiến lược kinh tế rõ ràng một cách đầy bất ngờ, rất minh bạch, trên phương diện ngắn hạn Những người máy sẽ không thế hết công việc của chúng ta trong một vài năm tới vậy nên cuốn sách chiến lược kinh tế 101 sẽ vẫn có hiệu lực: Khuyến khích kinh doanh, giàm gấp đôi về cơ sở hạ tầng và đảm bảo tạo ra những người lao động bước ra từ hệ thống giáo dục với những kỹ năng phù hợp.
But over the longer term, if we are moving into an economy that's heavy on technology and light on labor, and we are, then we have to consider some more radical interventions, for example, something like a guaranteed minimum income. Now, that's probably making some folk in this room uncomfortable, because that idea is associated with the extreme left wing and with fairly radical schemes for redistributing wealth. I did a little bit of research on this notion, and it might calm some folk down to know that the idea of a net guaranteed minimum income has been championed by those frothing-at-the-mouth socialists Friedrich Hayek, Richard Nixon and Milton Friedman. And if you find yourself worried that something like a guaranteed income is going to stifle our drive to succeed and make us kind of complacent, you might be interested to know that social mobility, one of the things we really pride ourselves on in the United States, is now lower than it is in the northern European countries that have these very generous social safety nets. So the economic playbook is actually pretty straightforward.
Nhưng về lâu dài, nếu chúng ta huớng theo một nền kinh tế nặng về công nghệ và sử dụng ít lao động, thì lúc đó chúng ta phải cân nhắc về những sự can thiệp triệt để, như thu nhập tối thiểu được đảm bảo chẳng hạn Điều này có lẽ khiến một số bạn ngồi trong phòng này khó chịu vì ý tưởng đó liên quan đến phe cánh tả cực đoan với những kế hoạch khá triệt để về tái phân bố sự giàu có Tôi đã làm một cuộc nghiên cứu nhỏ về khái niệm này nó có thể làm dịu một số bạn khi biết được rằng cái ý tưởng về thu nhập tối thiểu thực được đảm bảo đã chiến thắng bởi những người theo chủ nghĩa xã hội to mồm Friedrich Hayek, Richard Nixon và Milton Friedman. Nếu bạn cảm thấy lo lắng điều gì đó như một thu nhập được đảm bảo sẽ dập tắt động lực tiến tới thành công của chúng ta khiến chúng ta trở nên tự mãn, bạn sẽ rất hứng khởi khi biết rằng sự vận động của xã hội, một trong những điều chúng ta đặt niềm tự hào tại nước Mỹ hiện tại đang ở mức thấp hơn so với những quốc gia ở Bắc Âu mà có nền an sinh xã hội rất hào phóng Vậy nên cuốn sách chiến lược kinh tế thực sự rất minh bạch
The societal one is a lot more challenging. I don't know what the playbook is for getting Bill to engage and stay engaged throughout life.
nhưng về mặt xã hội lại mang tính thách thức hơn rất nhiều Tôi không biết phải có một cuốn sách chiến lược như thế nào để giữ Bill tồn tại trong nền kinh tế này
I do know that education is a huge part of it. I witnessed this firsthand. I was a Montessori kid for the first few years of my education, and what that education taught me is that the world is an interesting place and my job is to go explore it. The school stopped in third grade, so then I entered the public school system, and it felt like I had been sent to the Gulag. With the benefit of hindsight, I now know the job was to prepare me for life as a clerk or a laborer, but at the time it felt like the job was to kind of bore me into some submission with what was going on around me. We have to do better than this. We cannot keep turning out Bills.
Nhưng tôi biết rằng giáo dục đóng vai trò to lớn tại đây. Tôi đã chứng kiến điều này đầu tiên. Tôi là đứa trẻ đựơc giáo dục theo phương pháp Montessori trong những năm đầu đi học Điều mà phương pháp giáo dục đó dạy tôi là thế giới là một nơi thú vị công việc của tôi là ra đi và khám phá nó Trường học ngừng khi tôi học lớp 3 và tôi theo học hệ thống trừơng công cảm thấy như mình đã bị gửi đến Gulag. Với lợi ích của sự nhận thức muộn. Tôi biết điều này là để chuẩn bị cho tôi một cuộc sống giống của một thư kí hay lao động phổ thông nhưng cùng lúc tôi cũng cảm thấy điều này như thể luồn tôi vào một sự quy phục những gì xảy ra xung quanh Chúng ta phải làm tốt hơn thế này. Chúng ta không thể nào cứ thế trở thành Bill
So we see some green shoots that things are getting better. We see technology deeply impacting education and engaging people, from our youngest learners up to our oldest ones. We see very prominent business voices telling us we need to rethink some of the things that we've been holding dear for a while. And we see very serious and sustained and data-driven efforts to understand how to intervene in some of the most troubled communities that we have.
Chúng ta đang thấy một vài chồi non, dấu hiệu là chúng ta đang ngày một tốt hơn Chúng ta thấy công nghệ ảnh hưởng sâu vào giáo dục và lôi kéo mọi người, từ những người học trẻ nhất đến những ngừơi lớn tuổi nhất. Chúng ta thấy có những tiếng nói xuất chúng trong nền kinh doanh bảo rằng Chúng ta phải tái suy ngẫm về những thứ mà mình đã ưu ái duy trì trong thời gian qua Chúng ta thấy những nỗ lực nghiêm túc, lâu dài những nỗ lực thống kê số liệu để hiểu làm thế nào can thiệp vào những cộng đồng phức tạp nhất chúng ta hiện có
So the green shoots are out there. I don't want to pretend for a minute that what we have is going to be enough. We're facing very tough challenges. To give just one example, there are about five million Americans who have been unemployed for at least six months. We're not going to fix things for them by sending them back to Montessori. And my biggest worry is that we're creating a world where we're going to have glittering technologies embedded in kind of a shabby society and supported by an economy that generates inequality instead of opportunity.
Dấu hiệu chồi non vẫn hiện hữu Tôi không muốn giả vờ dù trong một phút chốc rằng những gì chúng ta hiện có là đủ. Chúng ta đang đối mặt với những thách thức cam go. Lấy một thí dụ, Có khoảng 5 triệu Ngừơi Mỹ đã bị thất nghiệp ít nhất 6 tháng. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề của họ bằng cách đưa họ về với phương pháp giáo dục Montessori Mối lo lắng lớn nhất của tôi là chúng ta đang tạo ra một thế giới mà chúng ta sẽ có những công nghệ rực rỡ được lồng vào một xã hội tồi tàn và được chống đỡ bởi một nền kinh tế mà chỉ sản sinh ra sự bất bình đẳng thay vì cơ hội.
But I actually don't think that's what we're going to do. I think we're going to do something a lot better for one very straightforward reason: The facts are getting out there. The realities of this new machine age and the change in the economy are becoming more widely known. If we wanted to accelerate that process, we could do things like have our best economists and policymakers play "Jeopardy!" against Watson. We could send Congress on an autonomous car road trip. And if we do enough of these kinds of things, the awareness is going to sink in that things are going to be different. And then we're off to the races, because I don't believe for a second that we have forgotten how to solve tough challenges or that we have become too apathetic or hard-hearted to even try.
Nhưng tôi thực sự không nghĩ rằng chúng ta sắp làm như thế Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm điều gì đó tốt hơn thế vì một lí do rất dễ hiểu Sự thực đang được phơi bày Thực tại của Tân kỉ nguyên máy móc này và sự thay đổi của nền kinh tế đang trở nên đựơc biết đến rộng rãi Nếu chúng ta muốn tăng tốc quá trình đó, chúng ta có thể làm những việc như để cho những nhà kinh tế và những người lập chính sách chơi trò "Nguy Cơ" chống lại Watson. Chúng ta sẽ mời Quốc Hội ngồi lên chuyến xe tự lái Nếu chúng ta nỗ lực làm đủ những việc này sự nhận thức mà sẽ bị chìm trong những thứ đó sẽ trở lên rất khác biệt Sau đó chúng ta bắt đầu cho những cuộc đua vì tôi không tin dù chỉ trong một giây rằng chúng ta đã quên đi cách giải quyết những thách thức cam go hoặc rằng chúng ta đã trở nên quá thờ ơ hay vô tâm để thậm chí cố gắng
I started my talk with quotes from wordsmiths who were separated by an ocean and a century. Let me end it with words from politicians who were similarly distant.
Tôi bắt đầu bài nói chuyện của mình với những trích dẫn từ những bậc thầy hùng biện những người ở bên kia đại dương hay từ thế kỉ trước Hãy để tôi kết thúc bài nói chuyện bằng câ nói của những nhà chính trị những người cũng xa cách tương tự
Winston Churchill came to my home of MIT in 1949, and he said, "If we are to bring the broad masses of the people in every land to the table of abundance, it can only be by the tireless improvement of all of our means of technical production."
Winston Churchill đến nhà tôi tại MIT trong năm 1949, và nói, "Nếu chúng ta có ý định đặt mọi người khắp nơi trên khắp các vùng đất vào chiếc bàn của sự sung túc, thì đó chỉ có thể thực hiện được bởi sự cải tiến không ngừng trong tất cả mọi phương thức về công nghệ sản xuất."
Abraham Lincoln realized there was one other ingredient. He said, "I am a firm believer in the people. If given the truth, they can be depended upon to meet any national crisis. The great point is to give them the plain facts."
Abraham Lincoln nhận ra có một công thức khác Ông nói, "Tôi là người tin tưởng vững chắc vào con người với sự thật là họ có thể được tin tưởng để giải quyết bất cứ cuộc khủng hoảng quốc gia nào. Điểm quan trọng nhất là cung cấp cho họ những sự thật minh bạch
So the optimistic note, great point that I want to leave you with is that the plain facts of the machine age are becoming clear, and I have every confidence that we're going to use them to chart a good course into the challenging, abundant economy that we're creating.
Vậy nên, sự lưu ý tích cực và điểm quan trọng mà tôi muốn đưa ra cho các bạn đó là những sự thật minh bạch của Tân kỉ nguyên máy móc ngày càng trở lên rõ ràng và tôi có đủ tự tin để nói rằng chúng ta sẽ sử dụng chúng để vẽ một lược đồ phát triển trong nền kinh tế đầy thách thức và dư dật mà chúng ta đang tạo dựng.
Thank you very much.
Cám ơn rất nhiều
(Applause)
(Vỗ Tay)