Radical openness is still a distant future in the field of school education. We have such a hard time figuring out that learning is not a place but an activity.
Sự cởi mở hoàn toàn vẫn là một tương lai xa vời trong lĩnh vực giáo dục nhà trường. Chúng ta thật khó lòng hiểu được rằng học tập không phải là một nơi chốn, mà là một hoạt động.
But I want to tell you the story of PISA, OECD's test to measure the knowledge and skills of 15-year-olds around the world, and it's really a story of how international comparisons have globalized the field of education that we usually treat as an affair of domestic policy.
Nhưng tôi muốn kể cho mọi người câu chuyện về PISA, bài kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng của OECD - dành cho tuổi 15 ở khắp thế giới, đó thật sự là một câu chuyện về những so sánh quốc tế đã toàn cầu hóa lĩnh vực giáo dục mà ta thường coi là chuyện riêng trong chính sách mỗi nước.
Look at how the world looked in the 1960s, in terms of the proportion of people who had completed high school. You can see the United States ahead of everyone else, and much of the economic success of the United States draws on its long-standing advantage as the first mover in education. But in the 1970s, some countries caught up. In the 1980s, the global expansion of the talent pool continued. And the world didn't stop in the 1990s. So in the '60s, the U.S. was first. In the '90s, it was 13th, and not because standards had fallen, but because they had risen so much faster elsewhere.
Hãy nhìn thế giới những năm 1960, qua tỉ lệ người đã học hết trung học. Ta thấy là nước Mỹ dẫn đầu và đa số những thành công về kinh tế của Mỹ bắt nguồn từ lợi thế lâu dài của nó là nước đi tiên phong trong giáo dục. Nhưng vào thập kỉ 1970, một số nước đã bắt kịp. Những năm 1980, sự mở rông mang tính toàn cầu của bể nhân tài vẫn tiếp tục. Và thế giới không dừng lại ở những năm 1990. Những năm 60, Mỹ đứng đầu. Những năm 90, họ đứng thứ 13, không phải vì các tiêu chuẩn đã hạ xuống, mà vì tiêu chuẩn được nâng lên rất nhanh ở những nơi khác.
Korea shows you what's possible in education. Two generations ago, Korea had the standard of living of Afghanistan today, and was one of the lowest education performers. Today, every young Korean finishes high school.
Hàn Quốc cho ta thấy điều có thể xảy ra trong giáo dục. Khoảng hai thế hệ trước, Hàn Quốc có mức sống ngang với Afghanistan ngày nay, và là một trong các nước có nền giáo dục kém phát triển nhất. Ngày nay, mọi thanh niên Hàn Quốc đều học hết phổ thông.
So this tells us that, in a global economy, it is no longer national improvement that's the benchmark for success, but the best performing education systems internationally. The trouble is that measuring how much time people spend in school or what degree they have got is not always a good way of seeing what they can actually do. Look at the toxic mix of unemployed graduates on our streets, while employers say they cannot find the people with the skills they need. And that tells you that better degrees don't automatically translate into better skills and better jobs and better lives.
Điều này cho thấy, trong nền kinh tế toàn cầu, thước đo thành công không còn là sự phát triển quốc gia mà là hệ thống giáo dục tốt nhất theo chuẩn quốc tế. Vấn đề là việc đo thời gian người ta đi học hoặc xét bằng cấp họ có không phải luôn là cách tốt nhất để thấy những gì họ có thể làm. Hãy nhìn vào cả mớ cử nhân đang thất nghiệp trên đường phố, khi nhà tuyển dụng lại nói không tìm được người có kĩ năng cần thiết. Điều đó cho thấy bằng cấp tốt không nghiễm nhiên biến thành những kĩ năng tốt, công việc tốt và cuộc sống tốt.
So with PISA, we try to change this by measuring the knowledge and skills of people directly. And we took a very special angle to this. We were less interested in whether students can simply reproduce what they have learned in school, but we wanted to test whether they can extrapolate from what they know and apply their knowledge in novel situations. Now, some people have criticized us for this. They say, you know, such a way of measuring outcomes is terribly unfair to people, because we test students with problems they haven't seen before. But if you take that logic, you know, you should consider life unfair, because the test of truth in life is not whether we can remember what we learned in school, but whether we are prepared for change, whether we are prepared for jobs that haven't been created, to use technologies that haven't been invented, to solve problems we just can't anticipate today.
Với PISA, chúng tôi đang cố thay đổi điều này bằng cách đánh giá kiến thức và kĩ năng của con người một cách trực tiếp. Và chúng tôi xem xét điều này dưới góc độ rất đặc biệt. Chúng tôi không chú tâm lắm vào việc học sinh có thể lặp lại những thứ học được ở trường, nhưng chúng tôi muốn kiểm tra liệu các em có thể suy luận từ những gì mình biết và áp dụng kiến thức vào những hoàn cảnh mới. Một vài người đã chỉ trích chúng tôi vì điều này. Họ nói, cách đánh giá kết quả này rất không công bằng, vì chúng tôi kiểm tra học sinh bằng những vấn đề họ chưa từng gặp. Nhưng nếu bạn chấp nhận logic này, bạn phải thấy cuộc sống là không công bằng, bởi bài kiểm tra chân lí ở đời không nằm trong cái ta nhớ được những gì đã học ở trường, mà là ở chỗ ta có được trang bị cho những thay đổi hay chưa, liệu ta có sẵn sàng làm những việc chưa từng có, và dùng những công nghệ chưa từng được phát minh, để giải quyết những vấn đề không thể dự đoán hôm nay.
And once hotly contested, our way of measuring outcomes has actually quickly become the standard. In our latest assessment in 2009, we measured 74 school systems that together cover 87 percent of the economy. This chart shows you the performance of countries. In red, sort of below OECD average. Yellow is so-so, and in green are the countries doing really well. You can see Shanghai, Korea, Singapore in Asia; Finland in Europe; Canada in North America doing really well. You can also see that there is a gap of almost three and a half school years between 15-year-olds in Shanghai and 15-year-olds in Chile, and the gap grows to seven school years when you include the countries with really poor performance. There's a world of difference in the way in which young people are prepared for today's economy.
Một khi đã đi qua những thử thách gắt gao, lối đánh giá kết quả trên nhanh chóng trở nên tiêu chuẩn. Trong đợt đánh giá gần đây nhất, vào năm 2009, chúng tôi đánh giá 74 hệ thống trường học đóng góp tổng cộng 87% cho nền kinh tế. Đồ thị này cho thấy kết quả thực hiện của các quốc gia. Màu đỏ là dưới trung bình của OECD một chút. Vàng là tương đối, xanh là tốt. Bạn thấy Thượng Hải, Hàn Quốc, Singapore ở Châu Á; Phần Lan ở Châu Âu; Canada ở Bắc Mĩ, đang làm rất tốt. Ta thấy có khoảng cách tới gần 3.5 năm đi học giữa học sinh 15 tuổi ở Thượng Hải với một học sinh 15 tuổi ở Chile, khoảng cách đó tăng tới 7 năm nếu tính các những nước thật sự tệ. Cách thanh niên chuẩn bị cho nền kinh tế ngày nay khác nhau một trời một vực.
But I want to introduce a second important dimension into this picture. Educators like to talk about equity. With PISA, we wanted to measure how they actually deliver equity, in terms of ensuring that people from different social backgrounds have equal chances. And we see that in some countries, the impact of social background on learning outcomes is very, very strong. Opportunities are unequally distributed. A lot of potential of young children is wasted. We see in other countries that it matters much less into which social context you're born. We all want to be there, in the upper right quadrant, where performance is strong and learning opportunities are equally distributed. Nobody, and no country, can afford to be there, where performance is poor and there are large social disparities. And then we can debate, you know, is it better to be there, where performance is strong at the price of large disparities? Or do we want to focus on equity and accept mediocrity? But actually, if you look at how countries come out on this picture, you see there are a lot of countries that actually are combining excellence with equity. In fact, one of the most important lessons from this comparison is that you don't have to compromise equity to achieve excellence. These countries have moved on from providing excellence for just some to providing excellence for all, a very important lesson. And that also challenges the paradigms of many school systems that believe they are mainly there to sort people. And ever since those results came out, policymakers, educators, researchers from around the world have tried to figure out what's behind the success of those systems.
Nhưng tôi muốn đưa vào bức tranh này khía cạnh quan trọng thứ hai. Những nhà giáo dục muốn nói về tính công bằng. Với PISA, chúng tôi muốn đánh giá cách họ thực hiện công bằng theo khía cạnh đảm bảo cho những người ở các tầng lớp xã hội khác nhau đều có cơ hội như nhau. Chúng tôi thấy ở một số nước, ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội lên kết quả học tập là hết sức rõ. Cơ hội không chia đều cho mọi người. Rất nhiều tiềm năng của trẻ em bị bỏ phí. Ở những nước khác, ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình thấp hơn nhiều. Mội người đều muốn ở đó, góc phần tư phía trên, nơi mọi việc được làm tốt và cơ hội học tập được chia đều. Không ai, và không quốc gia nào, vươn tới đó được, nếu cách làm không tốt và còn nhiều bất bình đẳng xã hội. Ta có thể tranh luận, rằng liệu có tốt hơn khi mọi việc tốt đẹp, với cái giá của sự bất bình đẳng lớn? Hay ta muốn tập trung vào công bằng và chấp nhận sự tầm thường? Thực ra, nếu bạn xem xét các quốc gia trong bức tranh bạn sẽ thấy rất nhiều nước đang thực sự kết hợp chất lượng ưu việt với sự công bằng. Thực tế, một bài học quan trọng từ phép so sánh này là bạn không cần đánh đổi công bằng để có được sự ưu việt. Những nước này đi từ việc giúp một nhóm trở nên ưu việt, rồi từ đó tạo điều kiện cho tất cả trở nên như vậy, đây là một bài học rất quan trọng. Nó thách thức hình mẫu của những hệ thống trường học tự cho rằng công việc chính của mình là phân loại con người. Từ khi có những kết quả này, những nhà vạch chính sách, các nhà giáo dục và nhà nghiên cứu trên toàn cầu đã cố tìm cho ra nguyên nhân thành công của các hệ thống đó.
But let's step back for a moment and focus on the countries that actually started PISA, and I'm giving them a colored bubble now. And I'm making the size of the bubble proportional to the amount of money that countries spent on students. If money would tell you everything about the quality of learning outcomes, you would find all the large bubbles at the top, no? But that's not what you see. Spending per student only explains about, well, less than 20 percent of the performance variation among countries, and Luxembourg, for example, the most expensive system, doesn't do particularly well. What you see is that two countries with similar spending achieve very different results. You also see -- and I think that's one of the most encouraging findings -- that we no longer live in a world that is neatly divided between rich and well-educated countries, and poor and badly-educated ones, a very, very important lesson.
Nhưng hãy quay lại một chút và tập trung vào các nước đã bắt đầu PISA, tôi đánh dấu họ bằng bóng màu. Và tôi điều chỉnh kích thước quả bóng sao cho nó tỉ lệ với ngân sách các quốc gia dành cho sinh viên. Nếu tiền có thể cho biết chất lượng kết quả học tập, ta sẽ thấy tất cả bóng lớn đều ở trên, đúng không? Ta thấy không phải vậy. Kinh phí cho sinh viên chỉ nói lên chưa đầy 20% sự khác biệt về kết quả giữa các quốc gia, ví dụ Luxembourg, nước có giáo dục đắt nhất, chẳng nổi trội là mấy. Ta thấy là hai nước có chi phí tương đương lại đạt những kết quả rất khác nhau. Ta cũng thấy -- và tôi cho rằng đây là khám phá thú vị nhất -- rằng ta không sống trong một thế giới phân chia rõ ràng giữa những nước giàu và giáo dục tốt, với nước nghèo và giáo dục tồi, bài học này rất là quan trọng.
Let's look at this in greater detail. The red dot shows you spending per student relative to a country's wealth. One way you can spend money is by paying teachers well, and you can see Korea investing a lot in attracting the best people into the teaching profession. And Korea also invests into long school days, which drives up costs further. Last but not least, Koreans want their teachers not only to teach but also to develop. They invest in professional development and collaboration and many other things. All that costs money. How can Korea afford all of this? The answer is, students in Korea learn in large classes. This is the blue bar which is driving costs down. You go to the next country on the list, Luxembourg, and you can see the red dot is exactly where it is for Korea, so Luxembourg spends the same per student as Korea does. But, you know, parents and teachers and policymakers in Luxembourg all like small classes. You know, it's very pleasant to walk into a small class. So they have invested all their money into there, and the blue bar, class size, is driving costs up. But even Luxembourg can spend its money only once, and the price for this is that teachers are not paid particularly well. Students don't have long hours of learning. And basically, teachers have little time to do anything else than teaching. So you can see two countries spent their money very differently, and actually how they spent their money matters a lot more than how much they invest in education.
Hãy nhìn sâu hơn vào chi tiết. Chấm đỏ cho thấy chi phí cho mỗi sinh viên tương quan với sự giàu có của nước đó. Một cách dùng tiền là trả lương cao cho giáo viên, và ta thấy Hàn Quốc đầu tư rất nhiều để thu hút những người giỏi nhất đi giảng dạy. Hàn Quốc cũng đầu tư để có ngày học dài hơn, làm chi phí tăng lên. Xét cho cùng, Hàn Quốc muốn giáo viên không chỉ dạy, mà phát triển. Họ đầu tư để nâng cao chuyên môn và sự cộng tác và nhiều việc khác nữa. Tất cả đều cần kinh phí. Làm thế nào Hàn Quốc trang trải được hết? Câu trả lời là sinh viên Hàn Quốc học trong giảng đường lớn. Đây là bí quyết làm giảm chi phí. Tới quốc gia tiếp theo, Luxembourg, ta thấy chấm đỏ ở đúng chỗ của Hàn Quốc, Ở Luxembourg, kinh phí cho mỗi sinh viên bằng kinh phí ở Hàn Quốc. Nhưng cha mẹ học sinh, giáo viên và nhà vạch chính sách ở Luxembourg chỉ thích lớp nhỏ. Vậy đấy, vào lớp học nhỏ rất thoải mái. Vậy nên họ dành toàn bộ tiền vào đó, kích thước lớp học (cột xanh) làm chi phí tăng lên. Nhưng kể cả Luxembourg cũng chỉ đầu tư một lần, và cái giá của việc này là lương giáo viên không cao. Sinh viên không có nhiều giờ học. Và cơ bản, giáo viên có ít thời gian làm những việc ngoài giảng dạy. Ta thấy hai quốc gia sử dụng kinh phí rất khác nhau, và thực ra cách chi phí quan trọng hơn nhiều so với mức chi phí đầu tư vào giáo dục.
Let's go back to the year 2000. Remember, that was the year before the iPod was invented. This is how the world looked then in terms of PISA performance. The first thing you can see is that the bubbles were a lot smaller, no? We spent a lot less on education, about 35 percent less on education. So you ask yourself, if education has become so much more expensive, has it become so much better? And the bitter truth really is that, you know, not in many countries. But there are some countries which have seen impressive improvements. Germany, my own country, in the year 2000, featured in the lower quadrant, below average performance, large social disparities. And remember, Germany, we used to be one of those countries that comes out very well when you just count people who have degrees. Very disappointing results. People were stunned by the results. And for the very first time, the public debate in Germany was dominated for months by education, not tax, not other kinds of issues, but education was the center of the public debate. And then policymakers began to respond to this. The federal government dramatically raised its investment in education. A lot was done to increase the life chances of students with an immigrant background or from social disadvantage. And what's really interesting is that this wasn't just about optimizing existing policies, but data transformed some of the beliefs and paradigms underlying German education. For example, traditionally, the education of the very young children was seen as the business of families, and you would have cases where women were seen as neglecting their family responsibilities when they sent their children to kindergarten. PISA has transformed that debate, and pushed early childhood education right at the center of public policy in Germany. Or traditionally, the German education divides children at the age of 10, very young children, between those deemed to pursue careers of knowledge workers and those who would end up working for the knowledge workers, and that mainly along socioeconomic lines, and that paradigm is being challenged now too. A lot of change.
Hãy trở lại năm 2000. Nhớ rằng đó là một năm trước khi iPod được phát minh. Đây là hình ảnh thế giới khi đó theo đánh giá PISA. Đầu tiên, ta thấy những quả bóng nhỏ hơn nhiều, đúng không? Chi cho giáo dục lúc đó ít hơn nhiều, ít hơn khoảng 35 phần trăm. Hãy tự hỏi, nếu giáo dục trở nên đắt hơn nhường ấy, liệu nó có tốt hơn nhường ấy không? Và sự thật cay đắng, là không có nhiều nước được như vậy. Có một số nước đã có sự cải thiện ấn tượng. Nước Đức, nước tôi, năm 2000, nằm ở góc phần tư phía dưới, kết quả dưới trung bình, bất bình đẳng lớn. nhớ rằng nước Đức tôi vốn từng rất nổi bật nếu chỉ so về số người có bằng cấp. Những kết quả này rất đáng thất vọng. Người ta ngỡ ngàng với kết quả. Và lần đầu tiên, một tranh luận xã hội ở Đức về giáo dục diễn ra suốt nhiều tháng, không phải về thuế, hay vấn đề khác, mà giáo dục trở thành trung tâm của tranh luận xã hội. Rồi những nhà vạch chính sách bắt đầu trả lời. Chính phủ liên bang tăng mạnh đầu tư vào giáo dục. Người ta đã làm nhiều điều để tăng cơ hội cho sinh viên nhập cư hay tầng lớp thấp. Điều thật sự thú vị, đây không chỉ là việc cải tổ chính sách đang có hiệu lực, mà dữ liệu đã biến đổi một số niềm tin và hình mẫu trong nền tảng của giáo dục Đức. Ví dụ, theo truyền thống, giáo dục trẻ nhỏ được coi là công việc gia đình, và bạn có thể gặp những trường hợp mà phụ nữ được coi là thiếu trách nhiệm gia đình nếu đưa con đến nhà trẻ. PISA đã biến đổi tranh luận đó, và đưa giáo dục mẫu giáo trở thành trọng điểm của chính sách công của nước Đức. Hoăc, theo truyền thống, giáo dục Đức phân chia trẻ em 10 tuổi, độ tuổi rất nhỏ, thành những người có thể trở thành lao động trí thức, và những người làm việc cho lao động trí thức. điều đó chủ yếu dựa trên đường lối kinh tế xã hội, và hình mẫu này đang bị thách thức. Rất nhiều thay đổi.
And the good news is, nine years later, you can see improvements in quality and equity. People have taken up the challenge, done something about it.
Tin tốt là, 9 năm sau, ta thấy được sự cải thiện về chất lượng và tính công bằng. Người ta chấp nhận thách thức, tìm cách vượt qua.
Or take Korea, at the other end of the spectrum. In the year 2000, Korea did already very well, but the Koreans were concerned that only a small share of their students achieved the really high levels of excellence. They took up the challenge, and Korea was able to double the proportion of students achieving excellence in one decade in the field of reading. Well, if you only focus on your brightest students, you know what happens is disparities grow, and you can see this bubble moving slightly to the other direction, but still, an impressive improvement.
Hoặc chọn Hàn Quốc, ở phía kia đồ thị. Năm 2000, Hàn Quốc đã làm rất tốt, nhưng người Hàn lo rằng chỉ một phần nhỏ sinh viên thực sự đạt được kết quả cao. Họ đã chấp nhận thách thức, và trong một thập kỉ, Hàn Quốc đã tăng gấp đôi tỉ lệ học sinh đạt kết quả cao trong lĩnh vực đọc. Vậy, nếu chỉ tập trung vào những học sinh giỏi nhất, ta biết bất bình đẳng sẽ tăng lên, ta thấy quả bóng này chuyển nhẹ sang hướng khác, song vẫn là cải thiện ấn tượng.
A major overhaul of Poland's education helped to dramatically reduce between variability among schools, turn around many of the lowest-performing schools, and raise performance by over half a school year. And you can see other countries as well. Portugal was able to consolidate its fragmented school system, raise quality and improve equity, and so did Hungary.
Sự cải tổ lớn trong giáo dục Ba Lan làm giảm rõ rệt sự phân hóa giữa các trường, và nâng cấp nhiều trường kém, và nâng chất lượng hoạt động lên tới hơn nửa năm học. Ta cũng thấy những nước khác nữa. Bồ Đào Nha đã củng cố hệ thống trường học rời rạc nâng cao chất lượng và tăng tính công bằng, Hungary cũng vậy.
So what you can actually see, there's been a lot of change. And even those people who complain and say that the relative standing of countries on something like PISA is just an artifact of culture, of economic factors, of social issues, of homogeneity of societies, and so on, these people must now concede that education improvement is possible. You know, Poland hasn't changed its culture. It didn't change its economy. It didn't change the compositions of its population. It didn't fire its teachers. It changed its education policies and practice. Very impressive.
Những gì ta thực sự thấy, là đã có rất nhiều thay đổi Kể cả những người từng phàn nàn và nói vị trí tương quan giữa các quốc gia trên một biểu đồ như PISA chỉ là chỉ vật văn hóa, của các yếu tố kinh tế, và các vấn đề xã hội, tính đồng đều của các xã hội, vân vân, những người đó cần thừa nhận là có thể cải thiện giáo dục. Ba Lan không hề thay đổi văn hóa. Không thay đổi nền kinh tế. Không thay đổi các thành phần của dân cư. Họ không sa thải giáo viên. Họ thay đổi chính sách giáo dục và cách thực hành. Rất ấn tượng.
And all that raises, of course, the question: What can we learn from those countries in the green quadrant who have achieved high levels of equity, high levels of performance, and raised outcomes? And, of course, the question is, can what works in one context provide a model elsewhere? Of course, you can't copy and paste education systems wholesale, but these comparisons have identified a range of factors that high-performing systems share. Everybody agrees that education is important. Everybody says that. But the test of truth is, how do you weigh that priority against other priorities? How do countries pay their teachers relative to other highly skilled workers? Would you want your child to become a teacher rather than a lawyer? How do the media talk about schools and teachers? Those are the critical questions, and what we have learned from PISA is that, in high-performing education systems, the leaders have convinced their citizens to make choices that value education, their future, more than consumption today. And you know what's interesting? You won't believe it, but there are countries in which the most attractive place to be is not the shopping center but the school. Those things really exist.
Tất nhiên, những điều này đặt ra câu hỏi: Ta học được gì từ những nước ở góc phần tư màu xanh lá những người đã đạt mức công bằng cao, kết quả cao, mà vẫn gia tăng được kết quả? Và hiển nhiên, một câu hỏi nữa: điều hữu hiệu trong một hoàn cảnh có thể trở thành mô hình ở nơi khác không? Tất nhiên ta không thể sao chép toàn bộ hệ thống giáo dục nhưng phép so sánh này đã nhận dạng các yếu tố mà những hệ thống hiệu quả đều có. Ai cũng đồng ý giáo dục là quan trọng. Ai cũng nói vậy. Nhưng phép kiểm nghiệm là, bạn dành ưu tiên cho việc đó hơn tất cả những việc khác ra sao? Các quốc gia trả lương cho giáo viên ra sao so với những lao động bậc cao khác? Bạn có muốn con mình trở thành một giáo viên thay vì một luật sư? Truyền thông nói về trường học và giáo viên ra sao? Đó là những câu hỏi cốt lõi, và điều ta học được từ PISA, là ở các hệ thống hiệu quả các nhà lãnh đạo đã thuyết phục người dân ra những lựa chọn có tính đề cao giáo dục, tương lai của họ, hơn là cho tiêu dùng ngày hôm nay. Quý vị sẽ không tin vào điều điều thú vị này, nhưng có những nước mà nơi hấp dẫn nhất không phải trung tâm thương mại mà là trường học. Điều đó có thật.
But placing a high value on education is just part of the picture. The other part is the belief that all children are capable of success. You have some countries where students are segregated early in their ages. You know, students are divided up, reflecting the belief that only some children can achieve world-class standards. But usually that is linked to very strong social disparities. If you go to Japan in Asia, or Finland in Europe, parents and teachers in those countries expect every student to succeed, and you can see that actually mirrored in student behavior. When we asked students what counts for success in mathematics, students in North America would typically tell us, you know, it's all about talent. If I'm not born as a genius in math, I'd better study something else. Nine out of 10 Japanese students say that it depends on my own investment, on my own effort, and that tells you a lot about the system that is around them.
Nhưng đánh giá cao giá trị của giáo dục chỉ là một phần của bức tranh. Phần còn lại là niềm tin rằng tất cả trẻ em đều có thể thành công. Ta có những nước mà học sinh bị phân rẽ ngay từ tuổi nhỏ. Học sinh được chia ra, vì người ta tin rằng chỉ một số đứa trẻ có thể đạt đến tiêu chuẩn của thế giới. Nhưng điều đó thường gắn liền với bất công xã hội. Nếu tới Nhật Bản ở Châu Á, hay Phần Lan ở Châu Âu, cha mẹ và giáo viên ở những nước đó mong đợi sự thành công ở mọi học sinh ta thấy điều đó được phản ánh trong hành vi của học sinh. Khi chúng tôi hỏi học sinh điều gì giúp thành công trong toán học, học sinh Bắc Mỹ sẽ thường trả lời đó là nhờ tài năng. Nếu tôi sinh ra không phải là thiên tài toán học, tôi nên học cái khác. 9/10 học sinh Nhật Bản sẽ nói điều đó phụ thuộc vào sự đầu tư, sự nỗ lực của tôi, điều này cho ta biết rất nhiều về hệ thống xung quanh họ.
In the past, different students were taught in similar ways. High performers on PISA embrace diversity with differentiated pedagogical practices. They realize that ordinary students have extraordinary talents, and they personalize learning opportunities.
Trước kia, các học sinh khác nhau được dạy như nhau. Những nước có vị trí cao trong PISA tôn trọng sự đa dạng với những phương pháp sư phạm khác nhau. Họ nhận ra rằng sinh viên bình thường có tài năng phi thường, và họ biến cơ hội học tập thành của mình.
High-performing systems also share clear and ambitious standards across the entire spectrum. Every student knows what matters. Every student knows what's required to be successful.
Những hệ thống hiệu quả cao cũng có chung những tiêu chuẩn đầy tham vọng và minh bạch trên toàn đồ thị. Mọi sinh viên đều biết điều gì là quan trọng. Mọi sinh viên đều biết làm sao để thành công.
And nowhere does the quality of an education system exceed the quality of its teachers. High-performing systems are very careful in how they recruit and select their teachers and how they train them. They watch how they improve the performances of teachers in difficulties who are struggling, and how they structure teacher pay. They provide an environment also in which teachers work together to frame good practice. And they provide intelligent pathways for teachers to grow in their careers. In bureaucratic school systems, teachers are often left alone in classrooms with a lot of prescription on what they should be teaching. High-performing systems are very clear what good performance is. They set very ambitious standards, but then they enable their teachers to figure out, what do I need to teach to my students today? The past was about delivered wisdom in education. Now the challenge is to enable user-generated wisdom. High performers have moved on from professional or from administrative forms of accountability and control -- sort of, how do you check whether people do what they're supposed to do in education -- to professional forms of work organization. They enable their teachers to make innovations in pedagogy. They provide them with the kind of development they need to develop stronger pedagogical practices. The goal of the past was standardization and compliance. High-performing systems have made teachers and school principals inventive. In the past, the policy focus was on outcomes, on provision. The high-performing systems have helped teachers and school principals to look outwards to the next teacher, the next school around their lives.
Và không ở đâu chất lượng của hệ thống giáo dục vượt qua được chất lượng của người thầy. Các hệ thống có hiệu quả cao rất cẩn trọng trong tuyển dụng và lựa chọn giáo viên và cách đào tạo họ. Họ cẩn thận với cách nâng cao trình độ của những giáo viên đang vượt khó để vươn lên, và cách cấu trúc lương cho giáo viên. Họ cũng tạo môi trường để giáo viên cùng làm việc để định hình ra phương pháp tốt. Họ tạo ra các lộ trình sáng suốt để giáo viên phát triển sự nghiệp. Trong những hệ thống trường học quan liêu, giáo viên thường bị bỏ mặc trong lớp với rất nhiều chỉ định về việc phải giảng cái gì. Hệ thống hiệu quả cao chỉ rõ hiệu suất cao là thế nào. Họ đặt ra những tiêu chuẩn đầy tham vọng, nhưng tạo điều kiện cho giáo viên tự quyết định, hôm nay sẽ dạy học sinh điều gì. Trong quá khứ người ta truyền đạt tri thức trong giáo dục. Thử thách ngày nay là tạo điều kiện cho tri thức tự đào tạo. Hệ thống hiệu quả cao đã chuyển từ những dạng chuyên môn hay quản trị của kiểm soát và trách nhiệm -- như, kiểm tra xem người ta có làm việc được giao trong giáo dục -- sang dạng chuyên môn của tổ chức nghề nghiệp. Họ cho phép giáo viên tạo những cải tiến trong sư phạm. Họ tạo điều kiện mà giáo viên cần để phát triển phương pháp sư phạm mạnh hơn. Mục tiêu của quá khứ là chuẩn hóa và đồng nhất. Những hệ thống cao tạo ra những giáo viên và hiệu trưởng có thể sáng tạo. Trong quá khứ, chính sách tập trung vào đầu ra, được định sẵn. Hệ thống hiệu quả cao đã giúp giáo viên và các hiệu trưởng hình dung ra người giáo viên sau này và trường học sau này trong đời họ.
And the most impressive outcomes of world-class systems is that they achieve high performance across the entire system. You've seen Finland doing so well on PISA, but what makes Finland so impressive is that only five percent of the performance variation amongst students lies between schools. Every school succeeds. This is where success is systemic. And how do they do that? They invest resources where they can make the most difference. They attract the strongest principals into the toughest schools, and the most talented teachers into the most challenging classroom.
Và kết quả ấn tượng nhất của hệ thống đẳng cấp thế giới là họ đạt hiệu suất cao trên toàn hệ thống. Bạn đã thấy Phần Lan làm rất tốt trên PISA nhưng điều làm Phần Lan ấn tượng đến vậy là chỉ có 5% khác biệt về chất lượng trong sinh viên giữa các trường. Trường nào cũng thành công. Đây là nơi mà thành công mang tính hệ thống. Sao họ làm thế được? Họ đầu tư nguồn lực vào nơi tạo sự khác biệt lớn nhất. Họ đưa hiệu trưởng giỏi nhất vào những trường xóc xương nhất, và giáo viên giỏi nhất vào lớp giỏi khó dạy nhất.
Last but not least, those countries align policies across all areas of public policy. They make them coherent over sustained periods of time, and they ensure that what they do is consistently implemented.
Cuối cùng, những nước này áp dụng cân đối chính sách trong toàn bộ lĩnh vực chính sách công. Những chính sách giúp họ mạch lạc qua những quãng thời gian dài, và đảm bảo những gì họ làm được triển khai nhất quán.
Now, knowing what successful systems are doing doesn't yet tell us how to improve. That's also clear, and that's where some of the limits of international comparisons of PISA are. That's where other forms of research need to kick in, and that's also why PISA doesn't venture into telling countries what they should be doing. But its strength lies in telling them what everybody else has been doing. And the example of PISA shows that data can be more powerful than administrative control of financial subsidy through which we usually run education systems.
Biết được những hệ thống thành công đang làm gì chưa cho chúng ta biết cách nâng cao. Điều đó cũng rõ, và đây là một vài hạn chế trong phép so sánh quốc tế của PISA. Những dạng nghiên cứu khác cũng cần vào cuộc, đó cũng là lí do PISA không có tham vọng nói cho các nước biết họ nên làm gì. Nhưng sức mạnh của nó nằm ở việc nó cho người ta biết người khác đã và đang làm gì. Ví dụ của PISA cho thấy dữ liệu có thể mạnh mẽ hơn việc quản trị bao cấp tài chính mà chúng ta thường nương vào để vận hành hệ thống giáo dục.
You know, some people argue that changing educational administration is like moving graveyards. You just can't rely on the people out there to help you with this. (Laughter) But PISA has shown what's possible in education. It has helped countries to see that improvement is possible. It has taken away excuses from those who are complacent. And it has helped countries to set meaningful targets in terms of measurable goals achieved by the world's leaders. If we can help every child, every teacher, every school, every principal, every parent see what improvement is possible, that only the sky is the limit to education improvement, we have laid the foundations for better policies and better lives.
Một số người tranh luận rằng thay đổi quản lý giáo dục như là di dời nghĩa trang. Bạn không thể tin có người giúp mình làm việc này. (Cười) Nhưng PISA cho thấy những điều có thể trong giáo dục. Nó giúp các nước thấy rằng cải thiện là điều có thể. Nó lấy đi lý sự của những người tự mãn. Nó giúp các nước đề ra các mục tiêu có ý nghĩa với các tiêu chí định lượng mà các nhà lãnh đạo phải đạt được. Nếu ta có thể giúp từng đứa trẻ, từng giáo viên, từng ngôi trường, từng hiệu trưởng, từng bậc cha mẹ thấy cải thiện là có thể, rằng không có giới hạn cho cải thiện giáo dục, ta đã đặt nền tảng cho những chính sách và chất lượng sống tốt hơn
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)