So this right here is the tiny village of Elle, close to Lista. It's right at the southernmost tip of Norway. And on January 2 this year, an elderly guy who lives in the village, he went out to see what was cast ashore during a recent storm. And on a patch of grass right next to the water's edge, he found a wetsuit. It was grey and black, and he thought it looked cheap. Out of each leg of the wetsuit there were sticking two white bones. It was clearly the remains of a human being.
Vâng hình ảnh này là một ngôi làng nhỏ của Elle, rất gần Lista Nó nằm ở cực Nam của Na Uy. Và vào ngày 2 tháng 1 năm nay, một cụ già sống trong làng, đã đến để xem những gì trôi dạt vào bờ sau một cơn bão gần đây. Và trên một bãi cỏ gần cạnh bờ biển, ông ấy tìm thấy một bộ đồ lặn. Nó màu xám và đen, ông nghĩ bộ này chắc rẻ. Bên ngoài mỗi chân của bộ đồ lặn là 2 cái xương trắng dính vào nhau. Đó rõ ràng là xương người.
And usually, in Norway, dead people are identified quickly. So the police started searching through missing reports from the local area, national missing reports, and looked for accidents with a possible connection. They found nothing. So they ran a DNA profile, and they started searching internationally through Interpol. Nothing. This was a person that nobody seemed to be missing. It was an invisible life heading for a nameless grave. But then, after a month, the police in Norway got a message from the police in the Netherlands. A couple of months earlier, they had found a body, in an identical wetsuit, and they had no idea who this person was. But the police in the Netherlands managed to trace the wetsuit by an RFID chip that was sewn in the suit. So they were then able to tell that both wetsuits were bought by the same customer at the same time, October 7, 2014, in the French city of Calais by the English Channel. But this was all they were able to figure out. The customer paid cash. There was no surveillance footage from the shop. So it became a cold case.
Và như thường lệ, ở Na Uy, người chết được nhận dạng nhanh chóng. Cảnh sát bắt đầu công cuộc tìm kiếm Thông qua các báo cáo mất tích từ địa phương, các báo cáo mất tích toàn quốc, và tìm kiếm các nạn nhân bằng các mối liên hệ có thể. Nhưng họ không tìm thấy gì cả. Vì thế họ phải nhờ đến hồ sơ DNA, Và bằng đầu tìm kiếm xuyên quốc gia thông qua Interpol. Và vẫn vô ích. Đây là một người mà không hề bị báo mất tích. Đây có thể sẽ là một ngôi mộ không tên. Nhưng sau đó một tháng, Cảnh sát Na Uy nhận được một tin nhắn từ cảnh sát Hà Lan, 2 tháng trước, họ tìm thấy một thi thể, trong một bộ đồ lặn y hêt, họ không biết người này là ai. Nhưng sau đó cảnh sát Hà Lan đã tìm ra dấu vết của bộ đồ lặn bằng chip RFID được gắn trên bộ đồ lặn. Họ kết luận rằng cả hai bộ đồ lặn được mua cùng 1 vị khách tại cùng thời điểm ngày 7 tháng 10 năm 2014, trong một thành phố của Pháp Calais gần eo biển nước Anh. Nhưng đây là tất cả những gì họ tìm được. vị khách trả bằng tiền mặt. Không có việc ghi lại từ cửa hàng. Điều này trở nên nan giải vô cùng.
We heard this story, and it triggered me and my colleague, photographer Tomm Christiansen, and we of course had the obvious question: who were these people? At the time, I'd barely heard about Calais, but it took about two or three seconds to figure out Calais is basically known for two things. It's the spot in continental Europe closest to Britain, and a lot of migrants and refugees are staying in this camp and are trying desperately to cross over to Britain. And right there was a plausible theory about the identity of the two people, and the police made this theory as well. Because if you or I or anybody else with a firm connection to Europe goes missing off the coast of France, people would just know. Your friends or family would report you missing, the police would come search for you, the media would know, and there would be pictures of you on lampposts. It's difficult to disappear without a trace. But if you just fled the war in Syria, and your family, if you have any family left, don't necessarily know where you are, and you're staying here illegally amongst thousands of others who come and go every day. Well, if you disappear one day, nobody will notice. The police won't come search for you because nobody knows you're gone.
Chúng tôi nghe câu chuyện này và nó kích thích tôi và đồng nghiệp, nhiếp ảnh gia Tomm Christansen, muốn trả lời câu hỏi: Họ là những ai? Vào lúc đó, tôi hầu như không nghe nói gì về Calais, Nhưng chỉ cần 2 đến 3 giây để tìm ra Calais được biết đến với 2 điều, Đó là một địa diểm ở châu Âu, rất gần với Anh, nhiều cư dân và người tị nạn sống trong các trại tị nạn họ cố gắng vượt biên sang Anh. Và đây có thể là một giả thiết hợp lý để nhận dạng hai người trên, Cảnh sát cũng dựa vào giả thiết này. Bạn, tôi và bất cứ ai đều có mối liên hệ với châu Âu khi bị mất tích ngoài khơi nước Pháp, mọi người đều biết. Bạn bè, người thân của bạn sẽ báo ngay bạn mất tích, Cảnh sát lập tức truy tìm bạn, truyền thông cũng sẽ biết, Sẽ có các bức hình bạn dán trên các cột đèn. Rất khó để biến mất không có dấu vết gì. Nhưng nếu bạn chạy trốn khỏi cuộc chiến ở Syria, và gia định của bạn cũng chạy trốn, họ không cần thiết biết bạn đang ở đâu, và bạn đang ở đây bất hợp pháp trong số hàng ngàn người đến và đi mỗi ngày. Vì thế, nếu bạn biến mất một ngày kia thì chẳng ai biết cả. Cảnh sát cũng không thể tìm ra bạn vì không ai biết bạn mất tích.
And this is what happened to Shadi Omar Kataf and Mouaz Al Balkhi from Syria.
Và đây là những gì đã xảy ra với Shadi Omar Kataf và Mouaz Al Balkhi từ Syria.
Me and Tomm went to Calais for the first time in April this year, and after three months of investigation, we were able to tell the story about how these two young men fled the war in Syria, ended up stuck in Calais, bought wetsuits and drowned in what seems to have been an attempt to swim across the English Channel in order to reach England. It is a story about the fact that everybody has a name, everybody has a story, everybody is someone. But it is also a story about what it's like to be a refugee in Europe today.
Tôi và Tomm đến Calais lần đầu vào tháng tư năm nay, Và sau 3 tháng điều ra, chúng tôi có thể biết được câu chuyện về hai người đàn ông trẻ chạy trốn khỏi cuộc chiến Syria, và chết tại Calais, họ đã mua đồ lặn và chết đuối sau rất nhiều nỗ lực để bơi qua eo biển nước Anh để đến Anh. Đây là câu chuyện về sự thật rằng mỗi người đều có tên tuổi. mỗi người có một câu chuyện, mỗi người là một ai đó trên thế gian này. Nhưng đây cũng là câu chuyện về người tị nạn ở châu Âu ngày nay.
So this is where we started our search. This is in Calais. Right now, between 3,500 and 5,000 people are living here under horrible conditions. It has been dubbed the worst refugee camp in Europe. Limited access to food, limited access to water, limited access to health care. Disease and infections are widespread. And they're all stuck here because they're trying to get to England in order to claim asylum. And they do that by hiding in the back of trucks headed for the ferry, or the Eurotunnel, or they sneak inside the tunnel terminal at night to try to hide on the trains.
Vì thế đây là lí do chúng tôi bắt đầu công cuộc tìm kiếm. Tại Calais. Lúc này đây, khoảng 3500 đến 5000 người đang sống ở đây dưới điều kiện tồi tệ. Nơi đây có thể là trại tị nạn tồi nhất châu Âu Thiếu thực phẩm, thiếu nước sạch, thiếu dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Bệnh tật và viêm nhiễm lây lan. Nhưng họ vẫn cố bám trụ ở đây để tìm cách sang Anh và để được bồi thường tị nạn. Và họ thường ẩn nấp phía sau xe tải chở hàng cho các chuyến phà hoặc là các tàu điện ngầm, Hoặc là họ nấp trong các đường hầm vào ban đêm hoặc là nấp trên tàu hỏa.
Most want to go to Britain because they know the language, and so they figure it would be easier to restart their lives from there. They want to work, they want to study, they want to be able to continue their lives. A lot of these people are highly educated and skilled workers. If you go to Calais and talk to refugees, you'll meet lawyers, politicians, engineers, graphic designers, farmers, soldiers. You've got the whole spectrum. But who all of these people are usually gets lost in the way we talk about refugees and migrants, because we usually do that in statistics.
Đa số họ đều muốn tới Anh vì biết tiếng Anh, và có thể dễ dàng bắt đầu cuộc sống mới ở nơi đây. Họ muốn làm việc, muốn học tập, Họ muốn tiếp tục cuộc sống. Nhiều người trong số đó học lên cao và là lao động lành nghề. Nếu bạn đến Calais và nói chuyện với người tị nạn, bạn sẽ gặp luật sư, nhà chính trị, kĩ sư, thiết kế đồ họa, nông dân, bộ đội. Bạn sẽ thấy toàn bộ xã hội. Nhưng nhiều người trong số đó bị mất tích và chúng tôi chỉ nói về người tị nạn và di cư, bởi vì chúng ta dựa vào thống kê.
So you have 60 million refugees globally. About half a million have made the crossing over the Mediterranean into Europe so far this year, and roughly 4,000 are staying in Calais. But these are numbers, and the numbers don't say anything about who these people are, where they came from, or why they're here.
Trong số 60 triệu dân tị nạn trên toàn cầu, thì có khoảng nửa triệu người là vượt biên qua bờ Địa Trung hải để đến châu Âu trong năm nay và khoảng 4000 người ở lại Calais. Nhưng đó chỉ là những con số, điều này không nói lên điều gì cả về những người đó là ai, họ đến từ đâu và tại sao họ ở đây.
And first, I want to tell you about one of them. This is 22-year-old Mouaz Al Balkhi from Syria. We first heard about him after being in Calais the first time looking for answers to the theory of the two dead bodies. And after a while, we heard this story about a Syrian man who was living in Bradford in England, and had been desperately searching for his nephew Mouaz for months. And it turned out the last time anybody had heard anything from Mouaz was October 7, 2014. That was the same date the wetsuits were bought. So we flew over there and we met the uncle and we did DNA samples of him, and later on got additional DNA samples from Mouaz's closest relative who now lives in Jordan. The analysis concluded the body who was found in a wetsuit on a beach in the Netherlands was actually Mouaz Al Balkhi. And while we were doing all this investigation, we got to know Mouaz's story. He was born in the Syrian capital of Damascus in 1991. He was raised in a middle class family, and his father in the middle there is a chemical engineer who spent 11 years in prison for belonging to the political opposition in Syria. While his father was in prison, Mouaz took responsibility and he cared for his three sisters. They said he was that kind of guy. Mouaz studied to become an electrical engineer at the University of Damascus.
Đầu tiên tôi muốn nói với bạn về một trong số đó. Đây là Mouaz Al Balkhi, 22 tuổi, đến từ Syria. Chúng tôi nghe kể về anh ta khi đến Calais lần đầu tìm đáp án cho giả thiết của 2 xác chết. Sau một hồi, chúng tôi nghe được câu chuyện về một chàng trai đến từ Syria, đã từng sống ở Bradford, nước Anh và anh đã tìm kiếm người thân cháu gái của anh - Mouaz - nhiều tháng trời Và rốt cuộc là, lần cuối mọi người nghe tin về Mouaz là vào ngày 7 tháng 10 năm 2014. Cùng ngày tìm thấy bộ đồ lặn. Vì thế chúng vội đến gặp chú của Mouaz và lấy mẫu DNA của ông, và lấy thêm mẫu DNA của người thân cận nhất với Mouaz đang sống tại Jordan. Kết quả là Cơ thể tìm thấy trong bồ độ lặn trên biển Hà Lan chính là Mouaz Al Balkhi. Và trong lúc chúng tôi đang điều tra, chúng tôi đã biết được câu chuyện của Mouaz. Anh sinh ra tại thủ đô Syria- Damascus- vào năm 1991. Anh sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. và cha của anh là một kĩ sư hóa học người đã bị bỏ tù 11 năm vì theo phe chống đối chính trị ở Syria. Trong lúc cha anh ở tù, Mouaz đã nhận trách nhiệm nuôi dưỡng 3 em gái. Họ đều kể anh là một người anh tốt. Mouaz mong muốn học ngành kĩ sư điện tại trường đại học Damascus.
So a couple of years into the Syrian war, the family fled Damascus and went to the neighboring country, Jordan. Their father had problems finding work in Jordan, and Mouaz could not continue his studies, so he figured, "OK, the best thing I can do to help my family would be to go somewhere where I can finish my studies and find work." So he goes to Turkey.
2 năm sau chiến tranh ở Syria gia đình anh rời khỏi Damacus và đến đất nước láng giềng, Jordan. Bố của anh không tìm được việc làm ở Jordan, và Mouaz không thể tiếp tục việc học, Và anh ấy nhận ra" điều tốt nhất tôi có thể làm để giúp gia đình là đi đến nơi nào đó để tiếp tục việc học hành và tìm được một việc làm." Vì thế anh đến Thổ Nhĩ Kỳ.
In Turkey, he's not accepted at a university, and once he had left Jordan as a refugee, he was not allowed to reenter. So then he decides to head for the UK, where his uncle lives. He makes it into Algeria, walks into Libya, pays a people smuggler to help him with the crossing into Italy by boat, and from there on he heads to Dunkirk, the city right next to Calais by the English Channel. We know he made at least 12 failed attempts to cross the English Channel by hiding in a truck. But at some point, he must have given up all hope. The last night we know he was alive, he spent at a cheap hotel close to the train station in Dunkirk. We found his name in the records, and he seems to have stayed there alone. The day after, he went into Calais, entered a sports shop a couple of minutes before 8 o'clock in the evening, along with Shadi Kataf. They both bought wetsuits, and the woman in the shop was the last person we know of to have seen them alive. We have tried to figure out where Shadi met Mouaz, but we weren't able to do that. But they do have a similar story. We first heard about Shadi after a cousin of his, living in Germany, had read an Arabic translation of the story made of Mouaz on Facebook. So we got in touch with him. Shadi, a couple of years older than Mouaz, was also raised in Damascus. He was a working kind of guy. He ran a tire repair shop and later worked in a printing company. He lived with his extended family, but their house got bombed early in the war. So the family fled to an area of Damascus known as Camp Yarmouk.
Nhưng tại đây, anh không được chấp nhận vào trường đại học nào, Vì anh rời khỏi Jordan như 1 người tị nạn nên anh không được trở về nữa. Vì thế anh quyết định đến Anh, nơi chú anh sinh sống. Anh đến Algeria và đi bộ tới Libya, Anh trả tiền cho người buôn lậu để giúp anh đến Italy bằng thuyền, và từ đó anh mới đến Dunkirk. thành phố kế bên Calais Chúng tôi biết anh đã thất bại ít nhất 12 lần để vượt qua eo biển Anh bằng việc nấp trong 1 xe tải. Nhưng anh vẫn không từ bỏ mọi hy vọng. Cái đêm chúng tôi biết anh còn sống, Anh đã ở trong 1 khách sạn rẻ rất gần ga tàu ở Dunkirk. Chúng tôi tìm thấy tên anh trên bảng báo cáo và có vẻ anh ở đó một mình. Một ngày sau đó, anh đến Calais và vào một cửa hàng thể thao khoảng 2 phút , trước 8h tối, anh đi cùng với Shadi Kataf. Họ mua 2 bộ đồ lặn và người phụ nữ trong cửa hàng là người cuối cùng thấy họ còn sống. Chúng tôi đã cố tìm ra nơi Shadi gặp Mouaz, nhưng không thể. Cả hai đều có hoàn cảnh tương tự nhau. Chúng tôi nghe kể về Shadi sau khi em họ anh, sống ở Đức, đọc một bài báo Ả rập về câu chuyện của Mouaz trên Facebook. Vì thế chúng tôi liên hệ ngay với anh ta. Shadi, lớn hơn Mouaz 2 tuổi, cũng lớn lên tại Damascus. Họ đều là những người chăm chỉ. Anh làm việc ở một xưởng xửa lốp xe và sau đó làm cho 1 công ty in. Anh ấy sống cùng gia đình nhiều thế hệ nhưng gia đình họ thường xuyên cãi vã. Sau đó gia đình anh chuyển đến vùng Camp Yarrmouk thuộc Damascus.
Yarmouk is being described as the worst place to live on planet Earth. They've been bombed by the military, they've been besieged, they've been stormed by ISIS and they've been cut off from supplies for years. There was a UN official who visited last year, and he said, "They ate all the grass so there was no grass left." Out of a population of 150,000, only 18,000 are believed to still be left in Yarmouk. Shadi and his sisters got out. The parents are still stuck inside.
Yarrmouk là nơi có điều kiện sống tồi tệ nhất trên Trái Đất. Họ bị quân đội đánh bom và bao vây. Và bị ISIS bắt giải Họ bị cắt nguồn cung cấp lương thực trong nhiều năm. Một đại sứ của Liên Hợp Quốc thăm họ vào năm ngoái, Ông ấy nói " Họ ăn cả cỏ đến nỗi không còn sót ngọn cỏ nào". Từ 150,000 người ban đầu, chỉ 18,000 người được tin còn sống sót tại Yarmouk. Shadi và em gái anh đã thoát khỏi Yarmouk Bố mẹ của họ vẫn ở Yarmouk.
So Shadi and one of his sisters, they fled to Libya. This was after the fall of Gaddafi, but before Libya turned into full-blown civil war. And in this last remaining sort of stability in Libya, Shadi took up scuba diving, and he seemed to spend most of his time underwater. He fell completely in love with the ocean, so when he finally decided that he could no longer be in Libya, late August 2014, he hoped to find work as a diver when he reached Italy. Reality was not that easy. We don't know much about his travels because he had a hard time communicating with his family, but we do know that he struggled. And by the end of September, he was living on the streets somewhere in France. On October 7, he calls his cousin in Belgium, and explains his situation. He said, "I'm in Calais. I need you to come get my backpack and my laptop. I can't afford to pay the people smugglers to help me with the crossing to Britain, but I will go buy a wetsuit and I will swim." His cousin, of course, tried to warn him not to, but Shadi's battery on the phone went flat, and his phone was never switched on again. What was left of Shadi was found nearly three months later, 800 kilometers away in a wetsuit on a beach in Norway. He's still waiting for his funeral in Norway, and none of his family will be able to attend.
Shadi và 1 trong số em gái anh đến Libya sau cuộc lật đổ Gaddafi, nhưng trước khi Libya chuyển sang nội chiến đẫm máu. Và trong giai đoạn cuối ổn định của Libya, Shadi thành thạo lặn và dường như dành nhiều thời gian dưới nước. Anh ấy yêu đại dương vô cùng, Và cuối cùng anh ấy quyết định sẽ không ở Libya nữa, lúc đó là cuối tháng 8 ăm 2014, anh ấy hy vọng tìm được việc là 1 thợ lặn khi đến Ý. Nhưng thực tế không hề dễ dàng.. Chúng tôi không biết nhiều về chuyến đi của anh vì anh hầu như ít liên lạc với gia đình, chúng tôi biết anh ấy gặp khó khăn. khoảng cuối tháng 9, anh sống trên đường phố ở Pháp. Vào ngày 7 tháng 10, anh ấy gọi cho anh họ ở Bỉ, và nói về hoàn cảnh của mình. Anh ấy nói "Em đang ở Calais. Xin hãy giúp em lấy lại hành lý và laptop. Em không thể trả cho bọn buôn lậu để giúp em vượt biên sang Anh, nhưng em sẽ đi mua 1 bộ đồ lặn và em sẽ bơi qua." Anh họ của anh ấy, tất nhiên, cảnh báo anh ấy không được làm thế. Nhưng điện thoại Shadi hết pin, và điện thoại anh không bật lên lần nào nữa. Xác shadi được tìm thấy cách đây 3 tháng cách đây 800 km trong một bồ độ lặn ở 1 bãi biển Na Uy. Vẫn chờ người nhà đến mang xác anh về nhưng không ai trong gia đình anh ấy đến cả.
Many may think that the story about Shadi and Mouaz is a story about death, but I don't agree. To me, this is a story about two questions that I think we all share: what is a better life, and what am I willing to do to achieve it? And to me, and probably a lot of you, a better life would mean being able to do more of what we think of as meaningful, whether that be spending more time with your family and friends, travel to an exotic place, or just getting money to buy that cool new device or a pair of new sneakers. And this is all within our reach pretty easily.
Nhiều người nghĩ rằng câu chuyện của Shadi và Mouaz là một câu chuyện về hai cái chết, nhưng tôi không đồng ý. Tôi cho rằng câu chuyện này đặt ra hai câu hỏi cần chúng ta trả lời về một sống tốt hơn, và tôi đang cố làm gì để đạt được điều đó? Và tôi nghĩ, rất nhiều người ở đây cho rằng một cuộc sống tốt có nghĩa là có thể làm nhiều điều mà chúng ta cho rằng ý nghĩa có thể là dành thời gian nhiều hơn cho bạn bè và gia đình, hay du lịch đến một nơi đẹp đẽ nào đó, hay đơn giản là có thêm tiền để mua một vật dụng mới hoặc là một đôi giày thể thao mới. Và tất cả những điều này đều nằm trong tầm với của chúng ta.
But if you are fleeing a war zone, the answers to those two questions are dramatically different. A better life is a life in safety. It's a life in dignity. A better life means not having your house bombed, not fearing being kidnapped. It means being able to send your children to school, go to university, or just find work to be able to provide for yourself and the ones you love. A better life would be a future of some possibilities compared to nearly none, and that's a strong motivation. And I have no trouble imagining that after spending weeks or even months as a second-grade citizen, living on the streets or in a horrible makeshift camp with a stupid, racist name like "The Jungle," most of us would be willing to do just about anything. If I could ask Shadi and Mouaz the second they stepped into the freezing waters of the English Channel, they would probably say, "This is worth the risk," because they could no longer see any other option. And that's desperation, but that's the reality of living as a refugee in Western Europe in 2015.
Nhưng nếu bạn đang ở trong vùng chiến tranh, câu trả lời dành cho hai câu hỏi trên vô cùng khác biệt. Một cuộc sống tốt đẹp là một cuộc sống được an toàn. Đó là một cuộc sống tốt về tinh thần. Một cuộc sống tốt đẹp là không có bom đánh vào nhà bạn, không phải lo sẽ bị thương tật, hay có thể đưa con trẻ tới trường, đi học đại học, hay chỉ là lao động để nuôi sống bản thân và người thân Một cuộc sống tốt đẹp là tương có thể có hoặc không bao giờ diễn ra, điều này thực sự là động lực mạnh mẽ cho mọi người. Và tôi không khó để tưởng tượng ra sau khi dành hàng tuần, thậm chí hàng tháng. để sống như một tầng lớp nghèo khổ sống trên đường phố, hay trong các trại tập trung bẩn thỉu với cái tên ngu ngốc đầy sự khinh miệt " the jungle", phần lớn chúng tôi sẽ cố để làm bất cứ điều gì. Nếu tôi có thể hỏi Shadi và Mouaz giây phút họ nhảy xuống dòng nước băng của eo biển Anh Họ sẽ nói điều gì, "Đây là rủi ro đáng để đánh đổi", bởi họ không còn lựa chọn nào cả. và họ thực sự tuyệt vọng, đó là thực tế cuộc sống của các cư dân tị nạn Tây Âu năm 2015.
Thank you.
Cảm ơn
(Applause)
Vỗ tay
Bruno Giussani: Thank you, Anders. This is Tomm Christiansen, who took most of the pictures you have seen and they've done reporting together. Tomm, you two have been back to Calais recently. This was the third trip. It was after the publication of the article. What has changed? What have you seen there?
Bruno Giussani: Cảm ơn, Anders. Đây là Tomm Christiansen, tác giả của phần lớn bức ảnh bạn nhìn thấy hôm nay. Tomm, đã trở về Calais gần đây. Đây là lần trở lại thứ 3. Sau khi đã công bố trước dư luận trong tạp chí. Điều gì đã diễn ra ở đó? Bạn đã thấy được gì?
Tomm Christiansen: The first time we were in Calais, it was about 1,500 refugees there. They had a difficult time, but they were positive, they had hope. The last time, the camp has grown, maybe four or five thousand people. It seemed more permanent, NGOs have arrived, a small school has opened. But the thing is that the refugees have stayed for a longer time, and the French government has managed to seal off the borders better, so now The Jungle is growing, along with the despair and hopelessness among the refugees.
Tomm Christiansen: Lần đầu khi chúng tôi ở Calais, có khoảng 1500 người tị nạn ớ đó. Tuy khó khăn nhưng họ vẫn rất lạc quan và hy vọng. Lần cuối chúng tôi đến, đã có nhiều trại hơn, khoảng 4000-5000 người. Có vẻ ở đây đã khá hơn và các tổ chức phi chính phủ đã can thiệp vào. Một ngôi trường nhỏ được mở. Nhưng những người tị nạn vẫn ở đây và chính phủ Pháp đã thắt chặt biên giới hơn, The Jungle đã phát triển hơn xưa, cùng với đó niềm hy vọng đang tắt dần trong những người tị nạn.
BG: Are you planning to go back? And continue the reporting?
BG: Anh có định trở lại không? Và tiếp tục tường thuật tin tức?
TC: Yes.
TC: Tất nhiên là có.
BG: Anders, I'm a former journalist, and to me, it's amazing that in the current climate of slashing budgets and publishers in crisis, Dagbladet has consented so many resources for this story, which tells a lot about newspapers taking the responsibility, but how did you sell it to your editors?
BG: Anders, tôi là nhà báo chính thức. và với tôi, thật thú vị khi ở trong trong thời buổi cắt giảm ngân sách vì khủng hoảng kinht ế Dagbladet đã chuẩn bị nhiều tư liệu cho câu chuyện hôm nay, để kể nhiều về trách nhiệm của báo chí, Nhưng làm sao để anh bán được cho các biên tập của báo?
Anders Fjellberg: It wasn't easy at first, because we weren't able to know what we actually could figure out. As soon as it became clear that we actually could be able to identify who the first one was, we basically got the message that we could do whatever we wanted, just travel wherever you need to go, do whatever you need to do, just get this done.
Anders Fjellberg: Lúc đầu thì không hề dễ, vì chúng tôi không thể biết những gì cần khai thác. và sau đó thì mọi sự rõ ràng chúng tôi có thể nhận ra người đầu tiên là ai chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, như đi bất cứ đâu, làm bất cứ điều gì, hay thực hiện buổi nói chuyện hôm nay.
BG: That's an editor taking responsibility. The story, by the way, has been translated and published across several European countries, and certainly will continue to do. And we want to read the updates from you. Thank you Anders. Thank you Tomm.
BG: Đây là trách nhiệm của 1 biên tập Câu chuyện này đã được dịch và công bố ở rất nhiều nước châu Âu và sẽ còn tiếp tục lan rộng. Chúng tôi muốn đọc các tin tức mới nhất từ bạn. Cảm ơn Anders. Cảm ơn Tomm
(Applause)
(Vỗ tay)