So I want to start by offering you a free no-tech life hack, and all it requires of you is this: that you change your posture for two minutes. But before I give it away, I want to ask you to right now do a little audit of your body and what you're doing with your body. So how many of you are sort of making yourselves smaller? Maybe you're hunching, crossing your legs, maybe wrapping your ankles. Sometimes we hold onto our arms like this. Sometimes we spread out. (Laughter) I see you. So I want you to pay attention to what you're doing right now. We're going to come back to that in a few minutes, and I'm hoping that if you learn to tweak this a little bit, it could significantly change the way your life unfolds.
Tôi muốn bắt đầu bằng việc giới thiệu miễn phí cho các bạn một mẹo nhỏ, và tất cả những gì bạn cần làm là: thay đổi tư thế của bạn trong vòng 2 phút Nhưng trước khi tôi tiết lộ bí mật này, tôi muốn các bạn hãy nhìn vào cơ thể mình và xem mình đang làm gì với nó. Có bao nhiêu bạn ở đây đang thu hẹp bản thân mình lại? Có thể bạn đang gù lưng, vắt chân, có thể co chân lại với nhau. Đôi khi chúng ta khoanh tay như thế này Đôi khi sải rộng ra (Cười) Tôi thấy rồi đấy. (Cười) Tôi muốn bạn hãy để ý xem cơ thể mình đang làm gì vào ngay lúc này và chúng ta sẽ quay lại với điều đó trong vòng vài phút nữa. và tôi hy vọng rằng nếu bạn học cách thay đổi nó một chút, cuộc đời bạn có thể sẽ được thay đổi một cách lớn lao.
So, we're really fascinated with body language, and we're particularly interested in other people's body language. You know, we're interested in, like, you know — (Laughter) — an awkward interaction, or a smile, or a contemptuous glance, or maybe a very awkward wink, or maybe even something like a handshake.
Ngôn ngữ cơ thể là một điều vô cùng thú vị mà chúng tôi đặc biệt quan tâm tới nhất là ngôn ngữ cơ thể của người khác. Bạn biết đấy, chúng tôi bị thu hút bởi, như là - (cười) - một cuộc gặp gỡ đầy ngượng ngạo, hay một nụ cười, một cái nhìn khinh thường, hay một cái nháy mắt vụng về
Narrator: Here they are arriving at Number 10.
hay là một cái bắt tay chăng nữa.
This lucky policeman gets to shake hands with the President of the United States. Here comes the Prime Minister -- No. (Laughter) (Applause)
''Họ đang tiến đến ngôi nhà Số 10, và hãy nhìn xem, anh cảnh sát may mắn được bắt tay với ngài Tổng thống Mỹ. Ồ, và đang tiến tới
(Laughter) (Applause)
vi. Thủ tướng của - ? Không. (Cười)' (Vỗ tay) (Cười) (Vỗ tay)
Amy Cuddy: So a handshake, or the lack of a handshake, can have us talking for weeks and weeks and weeks. Even the BBC and The New York Times. So obviously when we think about nonverbal behavior, or body language -- but we call it nonverbals as social scientists -- it's language, so we think about communication. When we think about communication, we think about interactions. So what is your body language communicating to me? What's mine communicating to you?
Vậy một cái bắt tay, hoặc sự vắng mặt của nó, có thể khiến chúng ta bàn luận hàng tuần liền. Kể cả trên BBC hay tờ Thời đại New York. Vì thế lẽ dĩ nhiên khi chúng ta nghĩ tới ngôn ngữ không lời, hay ngôn ngữ cơ thể - nhưng chúng tôi giới nghiên cứu xã hội gọi nó - nó là một ngôn ngữ, nên chúng ta nghĩ đến sự trao đổi liên lạc Khi chúng ta nghĩ đến trao đổi, chúng ta nghĩ đến sự tương tác. Vậy ngôn ngữ cơ thể của bạn đang nói gì với tôi vậy? Ngôn ngữ của tôi đang nói gì với bạn?
And there's a lot of reason to believe that this is a valid way to look at this. So social scientists have spent a lot of time looking at the effects of our body language, or other people's body language, on judgments. And we make sweeping judgments and inferences from body language. And those judgments can predict really meaningful life outcomes like who we hire or promote, who we ask out on a date. For example, Nalini Ambady, a researcher at Tufts University, shows that when people watch 30-second soundless clips of real physician-patient interactions, their judgments of the physician's niceness predict whether or not that physician will be sued. So it doesn't have to do so much with whether or not that physician was incompetent, but do we like that person and how they interacted? Even more dramatic, Alex Todorov at Princeton has shown us that judgments of political candidates' faces in just one second predict 70 percent of U.S. Senate and gubernatorial race outcomes, and even, let's go digital, emoticons used well in online negotiations can lead you to claim more value from that negotiation. If you use them poorly, bad idea. Right?
Và có rất nhiều lý do để tin rằng đó là một cách hợp lý để nhìn nhận vấn đề này. Những nhà xã hội học đã dành rất nhiều thời gian để tìm hiểu những ảnh hưởng của ngôn ngữ cơ thể, của chúng ta hay của người khác, dến sự đánh giá. Chúng ta có thể suy luận và đánh giá một cách nhanh chóng dựa trên ngôn ngữ cơ thể Và sự đánh giá suy luận đó có thể dẫn đến những kết cục quan trọng trong cuộc sống, như là việc chúng ta thuê hay đề bạt ai, hay mời ai đi chơi. Như Nalini Ambady, một nhà ngiên cứu ở trường Đại học Tufts đã chỉ ra rằng khi những người tham gia xem một đoạn clip 30 giây không tiếng giao tiếp giữa bệnh nhân và bác sỹ thật sự đánh giá của họ về mức độ tận tình và tốt bụng của bác sỹ dự đoán được việc vị bác sỹ đó có bị kiện hay không. Vậy việc bác sỹ có giỏi hay không, không quan trọng, quan trọng là chúng ta có thích người đó không và người đó cư xử như thế nào. Còn hơn thế, Alex Todorov ở Princeton đã chỉ cho chúng ta thấy rằng chỉ cần đánh giá khuôn mặt của những ứng cử viên chính trị trong vỏn vẹn 1 giây có thể dự đoán được 70% kết quả của bầu cử của Thượng Nghị Viện Mỹ và thống đốc bang, vá kể cả, hãy xem xét dưới góc độ thời đại số, những biểu tượng cảm xúc dùng một cách hợp lý trong những cuộc đàm phán trên mạng có thể dẫn tới nhiều lời lãi hơn từ cuộc đàm phán đó. Nhưng nếu dùng không đúng chỗ thì đúng là một ý tưởng tồi. Đúng thế!
So when we think of nonverbals, we think of how we judge others, how they judge us and what the outcomes are. We tend to forget, though, the other audience that's influenced by our nonverbals, and that's ourselves. We are also influenced by our nonverbals, our thoughts and our feelings and our physiology.
Vì thế khi chúng ta nghĩ đến ngôn ngữ không lời, chúng ta nghĩ đến việc dúng nó để phán xet người khác như thế nào, hay họ phán xét chúng ta như thế nào, và kết quả ra sao.. Tuy vậy, chúng ta thường hay quên mất một đối tượng khác cũng bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ cơ thể của chúng ta, và đó chính là bản thân ta. Chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ của bản thân mình, suy nghĩ, cảm xúc và sinh lý của bản thân.
So what nonverbals am I talking about? I'm a social psychologist. I study prejudice, and I teach at a competitive business school, so it was inevitable that I would become interested in power dynamics. I became especially interested in nonverbal expressions of power and dominance.
Vậy tôi đang nói đến ngôn ngữ không lời nào? Tôi là một nhà tâm lý xã hội học. Tôi ngiên cứu về sự kỳ thị, và tôi giảng dạy trong một trường thương mại đầy cạnh tranh, thế nên không thể tránh khỏi việc tôi trở nên hứng thú với quyền lực và cách nó hoạt động. Tôi đặc biệt quan tâm tới những biểu hiện không lời của quyền lực vá sự thống lĩnh.
And what are nonverbal expressions of power and dominance? Well, this is what they are. So in the animal kingdom, they are about expanding. So you make yourself big, you stretch out, you take up space, you're basically opening up. It's about opening up. And this is true across the animal kingdom. It's not just limited to primates. And humans do the same thing. (Laughter) So they do this both when they have power sort of chronically, and also when they're feeling powerful in the moment. And this one is especially interesting because it really shows us how universal and old these expressions of power are. This expression, which is known as pride, Jessica Tracy has studied. She shows that people who are born with sight and people who are congenitally blind do this when they win at a physical competition. So when they cross the finish line and they've won, it doesn't matter if they've never seen anyone do it. They do this. So the arms up in the V, the chin is slightly lifted.
Vậy đâu là những biểu hiện không lời của quyền lực và sự thống lĩnh? Chính là đây. Trong thế giới động vật, đó là sự bành trướng. Làm cho mình to ra, lớn lên, vươn rộng hơn, bạn chiếm lấy không gian, bạn mở rộng bản thân. tất cả đều về việc mở rộng. Và điều đó là hoàn toàn đúng trong thế giới động vật. Nhưng nó không chỉ giới hạn cho loài linh trưởng. Chúng ta con người cũng làm những điều tương tự. (Cười) Họ làm thế khi họ đã ở quen trong vị trí quyền lực được một thời gian, hoặc cả khi chỉ cảm thấy mạnh mẽ vào thời điểm đấy. Và cái này thật sự rất thú vị vì nó chỉ ra rằng những biểu hiện của quyền lực là hết sức nhất quán và cố xưa. Những biểu hiện này đươc biết đến như là lòng tự hào, Jesica Tracy đã nghiên cứu về việc này. Cô đã cho thấy những người mắt sáng và những người bị mù bẩm sinh khi họ chiến thắng trong một cuộc đua về thể lực. Khi họ vượt qua vạch kết thúc và chiến thắng, kể cả khi họ chưa nhìn thấy ai làm như thế bao giờ. Họ làm điều này. Hai cánh tay vươn lên thành chữ V, cằm hơi ngẩng lên.
What do we do when we feel powerless? We do exactly the opposite. We close up. We wrap ourselves up. We make ourselves small. We don't want to bump into the person next to us. So again, both animals and humans do the same thing. And this is what happens when you put together high and low power. So what we tend to do when it comes to power is that we complement the other's nonverbals. So if someone is being really powerful with us, we tend to make ourselves smaller. We don't mirror them. We do the opposite of them.
Vậy chúng ta làm gì khi chúng ta cảm thấy bất lực? Chúng ta làm chính xác điều ngược lại. Chúng ta co lại. Chúng ta bao bọc lấy bản thân. Làm cho bản thân mình nhỏ lại và không muốn va chạm gì với người ngồi cạnh. Và một lần nữa, động vật và con người làm cùng một điều. Và đây là những gì xảy ra khi chúng ta để gần nhau những người có nhiều quyền lực và những người bất lực. Và khi nói đến quyền lực, chúng ta có xu hướng hỗ trợ ngôn ngữ không lời của người đối diện. Thế nên nếu như có ai đó đang tỏ ra đầy quyền lực trước mặt mình, chúng ta có xu hướng làm cho bản thân mình nhỏ lại chứ không bắt chước họ. Chúng ta làm điều hoàn toàn ngược lại.
So I'm watching this behavior in the classroom, and what do I notice? I notice that MBA students really exhibit the full range of power nonverbals. So you have people who are like caricatures of alphas, really coming into the room, they get right into the middle of the room before class even starts, like they really want to occupy space. When they sit down, they're sort of spread out. They raise their hands like this. You have other people who are virtually collapsing when they come in. As soon they come in, you see it. You see it on their faces and their bodies, and they sit in their chair and they make themselves tiny, and they go like this when they raise their hand.
Và tôi quan sát những hành vi này trong lớp học. và điều mà tôi phát hiện ra là những sinh viên cao học thực sự trưng bày một cách toàn vẹn ngôn ngữ không lời của quyền lực. Một mặt chúng ta có những người với hành vi như một bức biếm họa của quyền lực, họ xông vào phòng, họ chiếm lấy vị trí trung tâm khi lớp học còn chưa bắt đầu, như thể họ thực sư muốn làm chủ không gian. Khi họ ngồi xuống, họ ngay lập tức giãn ra và mở rộng. Họ giơ tay phát biểu như thế này. Mặt khác chúng ta có những người như sắp sửa ngã gục khi họ đi vào. Ngay khi họ tiến vào là ta có thể nhìn thấy. Ta thấy trên mặt họ và trên cơ thể họ, và khi họ ngồi trong ghế của mình và họ thu nhỏ bản thân lại, và họ làm thế này khi họ muốn giơ tay phts biểu.
I notice a couple of things about this. One, you're not going to be surprised. It seems to be related to gender. So women are much more likely to do this kind of thing than men. Women feel chronically less powerful than men, so this is not surprising.
Tôi đã nhận thấy vài điều về chuyện này. Một, bạn sẽ không ngạc nhiên. Nó liên quan đến giới tính. Phụ nữ thường làm điều này nhiều hơn đàn ông. Phụ nữ thường xuyên cảm thấy yếu thế hơn đàn ông, và điều này không có gì là đáng ngạc nhiên, Nhưng điều mà tôi nhận thấy khác là
But the other thing I noticed is that it also seemed to be related to the extent to which the students were participating, and how well they were participating. And this is really important in the MBA classroom, because participation counts for half the grade.
nó có vẻ như liên quan đến mức độ mà học sinh đóng góp vào bài giảng. Vá điểu này thực sự rất quan trọng với học sinh cao học, bởi vì tham gia vào bài giảng trên lớp chiếm đến một nửa số điểm tốt nghiệp.
So business schools have been struggling with this gender grade gap. You get these equally qualified women and men coming in and then you get these differences in grades, and it seems to be partly attributable to participation. So I started to wonder, you know, okay, so you have these people coming in like this, and they're participating. Is it possible that we could get people to fake it and would it lead them to participate more?
Các trường thương mại đang cố gắng thu hẹp khoảng cách về điểm số giới tính này. Những người phụ nữ và đàn ông với năng lực ngang nhau nhưng điểm số lại khác biệt, và điều đó phần nào là do sự tham gia vào bài giảng. Và tôi bắt đầu suy nghĩ, bạn biết đấy, ok, chúng ta có những người này đi vào như thế, và họ tham gia nhiệt tình. Có thể nảo chúng ta làm cho những người khác giả vờ giống thế và điều đó sẽ làm cho họ tham gia một cách nhiệt tình hơn?
So my main collaborator Dana Carney, who's at Berkeley, and I really wanted to know, can you fake it till you make it? Like, can you do this just for a little while and actually experience a behavioral outcome that makes you seem more powerful? So we know that our nonverbals govern how other people think and feel about us. There's a lot of evidence. But our question really was, do our nonverbals govern how we think and feel about ourselves?
Cộng tác viên chính của tôi Dana Carney ở Berkeley, và tôi thực sự muốn biết, ta có thể giả vờ cho đến khi ta thực sự có nó được không. Như là, bạn làm thế cho đến một lúc nào đó và rồi sự thay đổi trong hành vi bắt đầu xảy ra làm cho bạn cảm thấy quyền lực hơn? Chúng ta đã biết là ngôn ngữ không lời quyêt định việc người khác nghĩ gì về chúng ta. Có rất nhiều bằng chứng về việc đó. Nhưng câu hỏi thực sự của chúng tôi là, có thể nào ngôn ngữ không lời có thể chỉ đạo việc chúng ta nghĩ gì về chính bản thân mình.
There's some evidence that they do. So, for example, we smile when we feel happy, but also, when we're forced to smile by holding a pen in our teeth like this, it makes us feel happy. So it goes both ways. When it comes to power, it also goes both ways. So when you feel powerful, you're more likely to do this, but it's also possible that when you pretend to be powerful, you are more likely to actually feel powerful.
Có nhứng bằng chứng chỉ ra là có thể. Ví dụ như là, chúng ta cười khi cảm thấy hạnh phúc, nhưng mặt khác, khi chúng ta bị buộc phải mỉm cười bằng cách giữ một cái bút bằng răng như thế này, nó làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Nó hoạt động theo cả hai hướng. Khi nói đến quyền lực, nó cũng đi theo cả hai hướng. Thế nên khi bạn cảm thấy mình mạnh mẽ, bạn thường làm thế này, nhưng cũng có thể là khi bạn giả vờ là mình nẳm quyền, bạn sẽ thực sự cảm thấy là mình có quyền lực.
So the second question really was, you know, so we know that our minds change our bodies, but is it also true that our bodies change our minds? And when I say minds, in the case of the powerful, what am I talking about? So I'm talking about thoughts and feelings and the sort of physiological things that make up our thoughts and feelings, and in my case, that's hormones. I look at hormones. So what do the minds of the powerful versus the powerless look like? So powerful people tend to be, not surprisingly, more assertive and more confident, more optimistic. They actually feel they're going to win even at games of chance. They also tend to be able to think more abstractly. So there are a lot of differences. They take more risks. There are a lot of differences between powerful and powerless people. Physiologically, there also are differences on two key hormones: testosterone, which is the dominance hormone, and cortisol, which is the stress hormone.
Vậy câu hỏi thứ hai sẽ là, bạn biết đấy, chúng ta đã biết rằng trí não có thể điều khiển được cơ thể, nhưng có thể nào mà cơ thể lại điều khiển được trí não không? Và khi tôi nói đến trí não, trong trường hợp của sự quyền lực, là tôi đang nói đến điều gì? Tôi đang nói về suy nghĩ và cảm xúc, và những thứ sinh lý học tạo ra suy nghĩ và cảm xúc, và trong trường hợp này, đó là hoóc môn. Tôi xem xét hoóc môn. Vậy bộ óc của người quyền lực và kẻ bất lực khác nhau như thế nào? Nhứng người quyền lực thường, không đáng ngạc nhiên lắm, chắc chắn, tự tin và lạc quan hơn. Ho thực sự cảm thấy như là họ sẽ chiến thắng, kể cả khi cờ bạc may rủi. Họ cũng thường có khả năng suy nghĩ một cách trừu tượng hơn. Có rất nhiều điểm khác biệt. Họ thường mạo hiểm hơn. Có rất nhiều khác biệt giữa những người quyền lực và bất lực. Về mặt sinh lý, cũng có những khác biệt trong hai hoóc môn chính: testosterone, hoóc môn thế lực và cortisol, hoóc môn xì trét.
So what we find is that high-power alpha males in primate hierarchies have high testosterone and low cortisol, and powerful and effective leaders also have high testosterone and low cortisol. So what does that mean? When you think about power, people tended to think only about testosterone, because that was about dominance. But really, power is also about how you react to stress. So do you want the high-power leader that's dominant, high on testosterone, but really stress reactive? Probably not, right? You want the person who's powerful and assertive and dominant, but not very stress reactive, the person who's laid back.
Những gì mà chúng tôi phát hiện là những giống đực cao cấp trong các bậc thang linh trưởng có nhiều testosterone và ít cortisol, và những nhà lãnh đạo quyền lực và xuất sắc cũng có nhiều testosterone và ít cortisol, Vậy điều đó có nghĩa là gì? Khi nghĩ đến quyền lực và sức mạnh, mọi người thường chỉ nghĩ đến testosterone, bởi vì nó liên quan đến sự thống trị, làm chủ. Nhưng thực ra, sức mạnh cũng còn liên quan đến việc bạn phản ứng thế nào với xì trét, Bạn có muốn một nhà lãnh đạo cao cấp và chủ chốt, đầy testosterone, nhưng rất căng thẳng và xì trét? Chắc là không? Bạn muốn một người mạnh mẽ, tự tin và làm chủ bản thân. nhưng không quá căng thẳng, một người thoải mái, dễ chịu.
So we know that in primate hierarchies, if an alpha needs to take over, if an individual needs to take over an alpha role sort of suddenly, within a few days, that individual's testosterone has gone up significantly and his cortisol has dropped significantly. So we have this evidence, both that the body can shape the mind, at least at the facial level, and also that role changes can shape the mind. So what happens, okay, you take a role change, what happens if you do that at a really minimal level, like this tiny manipulation, this tiny intervention? "For two minutes," you say, "I want you to stand like this, and it's going to make you feel more powerful."
Chúng tôi biết rằng trong tầng lớp linh trưởng, nếu một cá nhân cao cấp cần được tiếp quản, nếu một cá thể cần tiếp quản một vị trí cao cấp một cách đột ngột, trong vòng một vài ngày, nồng độ testosterone của cá thể đó tăng lên một cách rõ rệt và nồng độ cortisol giảm đi đáng kể. Vậy chúng ta có những bằng chứng chỉ ra rằng, cơ thể có thể định hình trí óc, ít nhất cũng ở biểu hiện khuôn mặt, và thay đổi vai trò, vị trí cũng có thể định hình trí não. Vậy việc gì sẽ xảy ra, ok, bạn thay đổi vị trí, việc gì sẽ xảy ra nếu như thay đổi đó là cực nhỏ, chỉ một thao tác nhỏ xíu, một sự can thiệp ít ỏi? 'Chỉ hai phút', bạn nghĩ, 'Tôi muốn bạn đứng như thế này, và nó sẽ làm bạn cảm thấy bản thân đầy quyến lực'.
So this is what we did. We decided to bring people into the lab and run a little experiment, and these people adopted, for two minutes, either high-power poses or low-power poses, and I'm just going to show you five of the poses, although they took on only two. So here's one. A couple more. This one has been dubbed the "Wonder Woman" by the media. Here are a couple more. So you can be standing or you can be sitting. And here are the low-power poses. So you're folding up, you're making yourself small. This one is very low-power. When you're touching your neck, you're really protecting yourself.
Và đó chính là điều chúng tôi đã làm. Chúng tôi quyết định mời một vài người vào phòng thí nghiệm và tiến hành một thử nghiệm nhỏ, những người này sẽ thử, trong vòng hai phút, những điệu bộ làm chủ hoặc dáng điệu phục tùng, và tôi sẽ chỉ cho các bạn thấy 5 điệu bộ này, mặc dù những người tham dự chỉ thử có 2. Đây là cái đầu tiên. Một vài cái nữa. Tư thế này đã được đặt tên là 'Siêu nhân Nữ' bởi giới truyền thông. Một hai cái nữa. Có cả đứng cả ngồi. Và đây là một số điệu bộ phục tùng và bất lực. Bạn co xếp lại, thu nhỏ người lại. Điệu bộ này là hoàn toàn bất lực. Khi bạn tự chạm vào cổ,
So this is what happens. They come in, they spit into a vial, for two minutes, we say, "You need to do this or this." They don't look at pictures of the poses. We don't want to prime them with a concept of power. We want them to be feeling power. So two minutes they do this. We then ask them, "How powerful do you feel?" on a series of items, and then we give them an opportunity to gamble, and then we take another saliva sample. That's it. That's the whole experiment.
là bạn đang tự bảo vệ bản thân mình. Những gì xảy ra là, họ đi vào, chia ra thành một cụm nhỏ, và chúng tôi trong vòng hai phút nói "Các bạn cần phải làm thế này hoặc thế này". Họ không nhìn vào ảnh của những dáng điêu đó. Chúng tôi không muốn gợi ý cho họ về khái niệm của sức mạnh. Chúng tôi muốn họ cảm thấy sức mạnh trong bản thân đúng không? Vậy trong hai phút, họ làm thế này. Và rồi chúng tôi hỏi họ 'Bạn có cảm thấy mạnh mẽ và quyền lực không?" trong một loạt các vấn đề, và rồi cho họ cơ hội để đánh bạc, và rồi chúng tôi lấy một mẫu nước bọt khác. Chỉ có vậy thôi, toàn bộ cuộc thí nghiệm.
So this is what we find. Risk tolerance, which is the gambling, we find that when you are in the high-power pose condition, 86 percent of you will gamble. When you're in the low-power pose condition, only 60 percent, and that's a whopping significant difference.
Vậy đây là điều mà chúng tôi tìm ra. Sự mạo hiểm, ở đây là trong việc cờ bạc, những gì mà chúng tôi thấy là khi bạn ở trong dáng điệu làm chủ, 86% mọi người sẽ đánh bạc. Khi bạn ở trong những tư thế khuất khục, chỉ 60%, và đó là một sự khác biệt đáng kể.
Here's what we find on testosterone. From their baseline when they come in, high-power people experience about a 20-percent increase, and low-power people experience about a 10-percent decrease. So again, two minutes, and you get these changes. Here's what you get on cortisol. High-power people experience about a 25-percent decrease, and the low-power people experience about a 15-percent increase. So two minutes lead to these hormonal changes that configure your brain to basically be either assertive, confident and comfortable, or really stress-reactive, and feeling sort of shut down. And we've all had the feeling, right? So it seems that our nonverbals do govern how we think and feel about ourselves, so it's not just others, but it's also ourselves. Also, our bodies change our minds.
Đây là điều mà chúng tôi khám phá ra về testosterone. So sánh với mức độ lúc đầu khi họ vừa vào, những người trong tư thế làm chủ có được khoảng 20% tăng lên, và những người trong tư thế phục tùng nhận được khoảng 10% suy giảm. Vậy một lần nữa, 2 phút, và bạn có được những sự thay đổi này. Ngững gì mà chúng ta thu được về cortisol là, Những người làm chủ giảm đi khoảng 25% và ở những người trong tư thế bất lực, nó tăng lên khoảng 15%. Vậy chỉ hai phút đã dẫn đến những thay đổi về hoóc môn, làm cho não bộ hoăc cảm thấy quả quyết, tự tin và thoải mái, hoặc dễ căng thẳng và, bạn biết đấy, như là ngưng hoạt dộng. Và chúng ta đều đã từng cảm thấy điều đó đúng không? Vậy có vẻ như là ngôn ngữ không lời của chúng ta có thể điều khiển cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận về bản thân mình, vậy không chỉ người khác, mà còn chính bản thân chúng ta nữa.
But the next question, of course, is, can power posing for a few minutes really change your life in meaningful ways? This is in the lab, it's this little task, it's just a couple of minutes. Where can you actually apply this? Which we cared about, of course. And so we think where you want to use this is evaluative situations, like social threat situations. Where are you being evaluated, either by your friends? For teenagers, it's at the lunchroom table. For some people it's speaking at a school board meeting. It might be giving a pitch or giving a talk like this or doing a job interview. We decided that the one that most people could relate to because most people had been through, was the job interview.
Và cơ thể có thể thay đổi và tác động đến não bộ nữa. Nhưng câu hỏi tiếp theo dĩ nhiên là ở trong tư thế quyên lực trong vòng vài phút có thể thay đổi cuộc sống của bạn một cách đáng kể hay không? Khi ở trong phòng thí nghiệm, nó là một hành động nhỏ, bạn biết đấy, chỉ một hai phút. Khi nào bạn thực sự có thể vận dụng điều này? Đó dĩ nhiên là điều mà chúng tôi quan tâm tới. Và chúng tôi nghĩ rằng thực sự, điều quan trọng, tôi muốn nói là, bạn muốn dùng điều này trong những hoàn cảnh phỏng chừng như là những hoàn cảnh xã hội dễ hăm dọa. Khi bạn bị đánh giá, phỏng chừng, kể cả bởi bạn bè? Như là những thiếu niên ở bàn ăn trưa. Nó có thể là, bạn biết đấy, với một vài người đó là nói trước hội đồng trường. Hoặc là thuyết trình một bản bán hàng hoặc một buổi nói chuyện như thế này hoặc một cuộc phỏng vấn xin việc. Chúng tôi quyết định là điều mà mọi người có thể thông cảm với tại vì hầu hết mọi người đều đã trải qua là phỏng vấn xin việc.
So we published these findings, and the media are all over it, and they say, Okay, so this is what you do when you go in for the job interview, right?
Vậy khi chúng tôi công bố những tìm kiếm này, và giới truyền thông làm ầm ĩ lên, và họ nói, ok, vậy đây kà những gì bạn làm khi bạn tham gia một cuộc phỏng vấn xin việc đúng không? (Cười)
(Laughter)
Bạn biết đấy, chúng tôi dĩ nhiên là hoảng loạn, và nói rằng,
You know, so we were of course horrified, and said, Oh my God, no, that's not what we meant at all. For numerous reasons, no, don't do that. Again, this is not about you talking to other people. It's you talking to yourself. What do you do before you go into a job interview? You do this. You're sitting down. You're looking at your iPhone -- or your Android, not trying to leave anyone out. You're looking at your notes, you're hunching up, making yourself small, when really what you should be doing maybe is this, like, in the bathroom, right? Do that. Find two minutes. So that's what we want to test. Okay? So we bring people into a lab, and they do either high- or low-power poses again, they go through a very stressful job interview. It's five minutes long. They are being recorded. They're being judged also, and the judges are trained to give no nonverbal feedback, so they look like this. Imagine this is the person interviewing you. So for five minutes, nothing, and this is worse than being heckled. People hate this. It's what Marianne LaFrance calls "standing in social quicksand." So this really spikes your cortisol. So this is the job interview we put them through, because we really wanted to see what happened. We then have these coders look at these tapes, four of them. They're blind to the hypothesis. They're blind to the conditions. They have no idea who's been posing in what pose, and they end up looking at these sets of tapes, and they say, "We want to hire these people," all the high-power posers. "We don't want to hire these people. We also evaluate these people much more positively overall." But what's driving it? It's not about the content of the speech. It's about the presence that they're bringing to the speech. Because we rate them on all these variables related to competence, like, how well-structured is the speech? How good is it? What are their qualifications? No effect on those things. This is what's affected. These kinds of things. People are bringing their true selves, basically. They're bringing themselves. They bring their ideas, but as themselves, with no, you know, residue over them. So this is what's driving the effect, or mediating the effect.
lạy Chúa, không không không, đó không phải là điều mà chúng tôi muốn nói. Vì rất nhiều lý do, không không không, đừng làm vậy. Một lần nữa, cái này không phải là về việc bạn nói chuyện với mọi người, mà là bạn nói chuyện với chính bản thân mình. Bạn làm gì trước khi bạn đi vào một cuộc phỏng vấn xin việc? Bạn làm thế này. Đúng không? Bạn ngồi xuống. Bạn kiểm tra cái iPhone, hoặc Android, không cố gắng để ai ra. Bạn, đúng đấy, bạn xem lại những ghi chú của mình, bạn cúi gù, thu nhỏ bản thân, trong khi bạn thực ra điều mà bạn nên làm là như thế này, như là trong phòng toilet vậy? Làm thế. Tìm 2 phút. Vậy đó là điều mà chúng tôi muốn kiểm chứng. Ok? Chúng tôi lại mời mọi người vào trong phòng thí nghiệm, và họ làm những điệu bộ quyền lực và bất lực một lần nữa, họ trải qua một cuộc phỏng vấn đầy căng thẳng. Dài năm phút. Họ bị ghi lại. Họ cũng bị xét đoán, và những người xét đoán họ được luyện để không để lại những phản hồi về mặt ngôn ngữ cơ thể, thế nên họ trông như thế này. Như là, hãy tưởng tượng đây là người phỏng vấn bạn. Trong cả 5 phút, không gì cả, và điều này còn tồi tệ hơn cả bị hạch sách. Mọi người ghét điều này. Đó là điều mà Marianne LaFrance gọi là 'đứng giữa lún cát xã hội'. Và điều này thực sự làm độ cortisol của bạn tăng vọt. Vậy đây là cuôc phỏng vấn mà chúng tôi bắt họ phải trải qua, bởi vì chúng tôi thực sự muốn biết điều gì sẽ xảy ra. Rồi chúng tôi cho những người giải mã xem những cuốn băng này, bốn cuộn. Họ không biết gì về những lý thuyết của chúng tôi. Họ cũng không biết gì về hoàn cảnh của những cuộc phỏng vấn. Họ không biết ai đã thử tư thế nào, và họ chỉ nhìn vào những cuoonnj băng này, và họ nói "Ồ tôi muốn thuê những người này" - tất cả những người trong tư thế quyền lực - hoặc 'chúng tôi không muốn thuê những người này. Chúng tôi cũng nhận xét những người này tích cực hơn nhiều." Nhưng điều gì đã dẫn đến chuyện đó? Nó không phải là nội dung của cuộc nói chuyện. Nó là về sự hiện diên mà họ mang đến cho cuộc nói chuyện. Chúng tôi cũng, bởi vì chúng tôi đánh giá họ dựa trên tất cả những điều kiện liên quan đến năng lực, như là cuộc nói chuyện có cấu trúc rõ ràng không? Nó có tốt không? Bằng cấp của họ ra sao? Những điều này không ảnh hưởng gì cả. Đây mới là điều quyết định. Những cái như thế này. Mọi người lộ rõ bản chất của mình, về cơ bản. Họ mang đến chính bản thân mình. Họ mang đến những ý tưởng, nhưng như chính bản thân họ, mà không có chút, bạn biết đấy, tàn dư nào cả. Vậy đấy mới là điều tạo ra những ảnh hưởng trên, hoăc điều hòa chúng.
So when I tell people about this, that our bodies change our minds and our minds can change our behavior, and our behavior can change our outcomes, they say to me, "It feels fake." Right? So I said, fake it till you make it. It's not me. I don't want to get there and then still feel like a fraud. I don't want to feel like an impostor. I don't want to get there only to feel like I'm not supposed to be here. And that really resonated with me, because I want to tell you a little story about being an impostor and feeling like I'm not supposed to be here.
Và khi tôi nói điều đó với mọi người, rằng cơ thể của chúng ta có thể thay đổi trí não và trí não chúng ta sẽ tác động đến hành vi, và hành vi của chúng ta có thể thay đổi kết quả cuộc sống, họ nói với tôi, "Tôi không - nó có vẻ giả tạo." Đúng không? Và tôi bảo với họ là, giả vờ cho đến khi bạn làm được. Tôi không - nó không phải là tôi. Tôi không muốn có được nó và rồi cảm thấy như là một kẻ gian lận. Tôi không muốn cảm thấy như là kẻ mạo danh. Tôi không muốn đến được đó rồi cảm thấy như là tôi không thuộc về nơi đó. Và tôi thực sự hiểu điều đó, bởi vì tôi muốn kể cho các bạn nghe một câu chuyện nhỏ về việc làm một kẻ mạo danh và cảm thấy như là tôi không thuộc về nơi này.
When I was 19, I was in a really bad car accident. I was thrown out of a car, rolled several times. I was thrown from the car. And I woke up in a head injury rehab ward, and I had been withdrawn from college, and I learned that my IQ had dropped by two standard deviations, which was very traumatic. I knew my IQ because I had identified with being smart, and I had been called gifted as a child. So I'm taken out of college, I keep trying to go back. They say, "You're not going to finish college. Just, you know, there are other things for you to do, but that's not going to work out for you."
Khi tôi 19 tuổi, tôi bị tai nạn xe hơi khá nghiêm trọng. Tôi bị ném ra khỏi xe, lăn vài vòng. Tôi bị ném ra khỏi xe. Và tỉnh dậy trong một phòng phục hồi chức năng sau tai nạn đầu, và tôi bị rút khỏi đại học, và tôi biết rằng độ IQ của tôi đã bị giảm xuống 2 độ lệch chuẩn, một điều vô cùng khủng khiếp. Tôi biết IQ của mình vì tôi đã định nghĩa bản thân là thông minh, và tôi đã được gọi là thiên tài khi còn nhỏ. Khi tôi bị rút khỏi đại học, tôi cứ cố gắng quay lại. Họ nói "Em sẽ không học xong đại học đâu. Chỉ vì, em biết đấy, có những điều khác em phải làm, và điều đó sẽ không giải quyết gì cho em được đâu."
So I really struggled with this, and I have to say, having your identity taken from you, your core identity, and for me it was being smart, having that taken from you, there's nothing that leaves you feeling more powerless than that. So I felt entirely powerless. I worked and worked, and I got lucky, and worked, and got lucky, and worked.
tôi thực sự phải đấu tranh với điều đó rất nhiều, và tôi phải nói rằng, bị lấy mất định nghĩa bản thân, định nghĩa cốt lõi của mình, và với tôi đó là sự thông minh, để điều đó bị lấy mất, không có gì làm cho bạn cảm thấy vô dụng và bất lực hơn thế. Tôi cảm thấy hoàn toàn vô dụng. Tôi làm việc, làm việc và làm việc, rồi tôi gặp may, và làm việc, và gặp may, và rồi lại làm việc. Cuối cùng tôi tốt nghiệp đại học.
Eventually I graduated from college. It took me four years longer than my peers, and I convinced someone, my angel advisor, Susan Fiske, to take me on, and so I ended up at Princeton, and I was like, I am not supposed to be here. I am an impostor. And the night before my first-year talk, and the first-year talk at Princeton is a 20-minute talk to 20 people. That's it. I was so afraid of being found out the next day that I called her and said, "I'm quitting." She was like, "You are not quitting, because I took a gamble on you, and you're staying. You're going to stay, and this is what you're going to do. You are going to fake it. You're going to do every talk that you ever get asked to do. You're just going to do it and do it and do it, even if you're terrified and just paralyzed and having an out-of-body experience, until you have this moment where you say, 'Oh my gosh, I'm doing it. Like, I have become this. I am actually doing this.'" So that's what I did. Five years in grad school, a few years, you know, I'm at Northwestern, I moved to Harvard, I'm at Harvard, I'm not really thinking about it anymore, but for a long time I had been thinking, "Not supposed to be here."
Tôi mất 4 năm nhiều hơn các bạn học của mình, và tôi thuyết phuc, cô cố vấn tuyệt vời của tôi, Susan Fiske, nhận tôi vào, thế là tôi đã đến được Princeton, và tôi cảm thấy như là tôi không đáng được ở đây. Tôi là một kẻ giả mạo. Buổi tối trước cuộc nói chuyện năm đầu của tôi, và buổi nói chuyện năm đầu ở Princeton chỉ là 20 phút nói chuyện với 20 người. Chỉ thế thôi. Tôi quá lo lắng về việc bị phát hiện vào ngày hôm sau nên tôi gọi cô và nói rằng "Em bỏ đây." Cô ấy nói rằng "Em không từ bỏ được, bởi vì cô đã cá cược vào em, và em sẽ ở lại. Em sẽ ở lại, và đây là điều mà em sẽ làm. Em sẽ phải giả vờ. Em sẽ làm từng buổi nói chuyện mà em được đề nghị làm. Em sẽ tiếp tục làm, tiếp tục và tiếp tục, kể cả khi em sợ hãi và tê liệt và trải nghiệm cảm giác ở ngoài cơ thể, cho đến thời điểm em nói được "Lạy Chúa, tôi làm được này. Như là, tôi đã trở thành người này. Tôi thực sự đang làm nó"". Và đó là điều mà tôi đã làm. 5 năm học cao học, một vài năm, bạn biết đấy, tôi ở Northwestern, rồi tôi chuyển đến Harvard, tôi ở Harvard, tôi không thực sự nghĩ về chuyện đó nữa, nhưng trong một thời gian dài tôi đã suy nghĩ là, "Không đáng được ở đây. Không đáng được ở đây."
So at the end of my first year at Harvard, a student who had not talked in class the entire semester, who I had said, "Look, you've gotta participate or else you're going to fail," came into my office. I really didn't know her at all. She came in totally defeated, and she said, "I'm not supposed to be here." And that was the moment for me. Because two things happened. One was that I realized, oh my gosh, I don't feel like that anymore. I don't feel that anymore, but she does, and I get that feeling. And the second was, she is supposed to be here! Like, she can fake it, she can become it.
Vậy trong năm cuối ở Harvard của tôi, một học sinh rất ít nói trong lớp học trong suốt cả học kỳ, người mà tôi đã bảo rằng "Nhìn này, em phải tham gia vào thảo luận nhiều hơn, không thì em sẽ trượt đấy", đi vào văn phòng của tôi. Tôi thực sự không biết gì về em đó cả. Và cô ấy nói rằng, cô ấy bước vào, hoàn toàn thất bại, và cô ấy nói rằng, "Em không đáng được ở đây". Và đó là giây phút của tôi. Bởi vì 2 điều xảy ra. Một là tôi nhận ra, trời ơi, tôi không cảm thấy như thế nữa. Bạn biết đấy. Tôi không cảm thấy điều đó nữa, nhưng em học sinh đó thì có, và tôi biết cảm giác đó như thế nào. Và điều thứ 2 là, cô ấy xứng đáng được ở đây! Là, cô ấy có thể giả vờ, rồi cô ấy sẽ trở thành hiện thực.
So I was like, "Yes, you are! You are supposed to be here! And tomorrow you're going to fake it, you're going to make yourself powerful, and, you know --
Và tôi nói rằng "Không, em xứng đáng! Em đáng được ở đây! Và ngày mai em sẽ phải giả vờ, em phải làm cho bản thân mình tự tin và quyền lực hơn, và, em biết đấy,
(Applause)
em sẽ --- " (Vỗ tay) (Vỗ tay)
And you're going to go into the classroom, and you are going to give the best comment ever." You know? And she gave the best comment ever, and people turned around and were like, oh my God, I didn't even notice her sitting there. (Laughter)
Và em sẽ đi vào trong lớp học , và em sẽ phát biểu một lời nhận xét hay nhất từng có" Bạn biết gì không? Và cô ấy đã có lời phát biểu tuyệt vời nhất, và mọi người quay lại và họ như là, trời ơi, tớ đã chả để ý là cô ấy ngồi ở đấy, bạn biết đấy? (Cười)
She comes back to me months later, and I realized that she had not just faked it till she made it, she had actually faked it till she became it. So she had changed. And so I want to say to you, don't fake it till you make it. Fake it till you become it. Do it enough until you actually become it and internalize.
Cô ấy quay lại chỗ tôi vài tháng sau đó, và tôi nhận ra rằng cô ấy không chỉ giả vờ cho đến khi làm được nó, cô ấy đã thực sự giả vờ cho đến khi cô ấy trở thành nó. Vậy là cô ấy đã thay đổi. Và điều mà tôi muốn nói với các bạn là, đừng giả vờ cho đến khi bạn làm được nó. Giả vờ cho đến khi bạn trở thành điều đó. Bạn biết đấy? Nó không phải là --- Làm điều đó cho đến khi bạn thực sự trở thành nó và nó trở thành bạn.
The last thing I'm going to leave you with is this. Tiny tweaks can lead to big changes. So, this is two minutes. Two minutes, two minutes, two minutes. Before you go into the next stressful evaluative situation, for two minutes, try doing this, in the elevator, in a bathroom stall, at your desk behind closed doors. That's what you want to do. Configure your brain to cope the best in that situation. Get your testosterone up. Get your cortisol down. Don't leave that situation feeling like, oh, I didn't show them who I am. Leave that situation feeling like, I really feel like I got to say who I am and show who I am.
Điều cuối cùng mà tôi muốn để lại cho các bạn là. Những sự điều chỉnh bé nhỏ có thể dẫn đến những thay đổi to lớn. Chỉ trong vòng 2 phút. 2 phút, 2 phút, 2 phút. Trước khi bạn tiến vào một cuộc kiểm nghiệm căng thẳng, trong vòng 2 phút, thử làm thế này, trong thang máy, trong toilet, ở bàn của bạn ở sau cánh cửa đóng. Đây là điều mà bạn muốn làm. Định dạng cấu hình não của bạn để đối phó tốt nhất với tình huống đó. Đẩy độ testosterone của bạn lên. Giảm độ cortisol xuống. Đừng rời khỏi hoàn cảnh đó và cảm thấy như là, oh, tôi đã không cho họ thấy mình là ai. Hãy rời khỏi hoành cảnh đó và cảm thấy, oh, tôi thực sự nói được mình là ai và cho họ thấy tôi là ai.
So I want to ask you first, you know, both to try power posing, and also I want to ask you to share the science, because this is simple. I don't have ego involved in this. (Laughter) Give it away. Share it with people, because the people who can use it the most are the ones with no resources and no technology and no status and no power. Give it to them because they can do it in private. They need their bodies, privacy and two minutes, and it can significantly change the outcomes of their life.
Vậy tôi muốn đề nghị các bạn trước tiên, bạn biết đấy, vửa thử tạo hình đầy quyền lực, và tôi cũng muốn đề nghị với các bạn vừa chia sẻ những quy tắc khoa học này, bởi vì nó rất đơn giản. Tôi không có cái tôi trong việc này, (Cười) Cho đi. Chia sẻ với mọi người, bởi vì những người cần sử dụng nó nhiều nhất là những người không có tài nguyên và công nghệ, không có chỗ đứng và sức mạnh. Đưa nó cho họ bởi vì họ có thể tự làm điều đó một mình. Họ cần cơ thể mình, sự riêng tư và 2 phút, và điều đó có thể thay đổi cuộc sống họ một cách đáng kể.
Thank you.
Cảm ơn. (Vỗ tay)
(Applause)
(Vỗ tay)