I'm the product of a bold leadership decision. After 1956, when Tunisia became independent, our first president, Habib Bourguiba, decided to invest 20 percent of the country's national budget in education. Yes, 20 percent, on the high end of the spectrum even by today's standards. Some people protested. What about infrastructure? What about electricity, roads and running water? Are these not important?
Tôi là thành quả của một quyết định lãnh đạo táo bạo. Sau năm 1956, khi Tunisia trở thành một quốc gia độc lập, Tổng thống đầu tiên của chúng tôi, Habib Bourguiba, quyết định đầu tư 20% ngân sách quốc gia vào giáo dục. Đúng vậy, 20%, một khoản đầu tư lớn, kể cả khi so với tiêu chuẩn của ngày nay. Một số người phản đối. Vậy còn cơ sở hạ tầng thì sao? Vậy còn điện năng, đường bộ, và nước sinh hoạt? Những yếu tố này không quan trọng sao?
I would argue that the most important infrastructure we have are minds, educated minds. President Bourguiba helped establish free, high-quality education for every boy and every girl. And together with millions of other Tunisians, I'm deeply indebted to that historic decision.
Tôi tin rằng cơ sở hạ tầng quan trọng nhất mà chúng ta có là trí óc, những trí óc được giáo dục. Tổng thống Bourguiba đã giúp xây dựng một nền giáo dục miễn phí với chất lượng cao cho tất cả các bé trai và bé gái. Và cũng như hàng triệu người Tunisia khác, tôi vô cùng biết ơn quyết định lịch sử đó.
And that's what brought me here today, because today, we are facing a global learning crisis. I call it learning crisis and not education crisis, because on top of the quarter of a billion children who are out of school today, even more, 330 million children, are in school but failing to learn. And if we do nothing, if nothing changes, by 2030, just 13 years from now, half of the world's children and youth, half of 1.6 billion children and youth, will be either out of school or failing to learn.
Và đó là điều đã mang tôi tới đây, bởi vì ngày này, chúng ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng học tập toàn cầu. Tôi gọi là khủng hoảng học tập thay vì khủng hoảng giáo dục, bởi vì ngoài một phần tư trong số một tỉ trẻ em đang không được tới trường ngày nay, nhiều hơn thế, 330 triệu trẻ em, đang tới trường nhưng không thể học tập. Và nếu chúng ta không làm gì, nếu không có gì thay đổi, tới 2030, chỉ 13 năm sau, một nửa trẻ em và người trẻ trên thế giới, một nửa trong số 1,6 tỷ trẻ em và người trẻ, sẽ hoặc không được tới trường hoặc không thể học tập.
So two years ago, I joined the Education Commission. It's a commission brought together by former UK Prime Minister and UN Special Envoy for Global Education Gordon Brown. Our first task was to find out: How big is the learning crisis? What's actually the scope of the problem? Today we know: half of the world's children by 2030 will be failing to learn. And that's how actually we discovered that we need to change the world's focus from schooling to learning, from just counting how many bodies are in classrooms to actually how many are learning. And the second big task was, can we do anything about this? Can we do anything about this big, vast, silent, maybe most-neglected international crisis? And what we found out is, we can. It's actually amazing. We can, for the first time, have every child in school and learning within just one generation. And we don't even have to really invent the wheel to do so. We just need to learn from the best in class, but not any best in class -- the best in your own class.
Vì vậy hai năm trước, tôi đã tham gia Ủy ban Giáo dục. Đây là một Ủy ban được thành lập bởi cựu Thủ tướng Anh và Công sứ đặc nhiệm về Giáo dục toàn cầu Gordon Brown. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là tìm ra: Khủng hoảng học tập đang lớn tới mức nào? Phạm vi thực sự của vấn đề là bao nhiêu? Ngày nay chúng ta biết: tới 2030, một nửa trẻ em trên toàn thế giới sẽ không thể học tập. Và đó là điều khiến chúng tôi thực sự nhận ra rằng chúng ta cần thay đổi mục tiêu toàn cầu từ “tới trường” thành “học tập”, từ chỉ “đếm xem có bao nhiêu học sinh trong lớp” thành “có bao nhiêu em đang thực sự học“. Và nhiệm vụ lớn thứ hai là: chúng ta có thể làm gì không? Chúng ta có thể làm gì với cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng, ảnh hưởng xa rộng, lặng lẽ và có lẽ bị ngó lơ nhiều nhất? Và điều chúng tôi phát hiện ra là: chúng ta có thể. Đây thực sự là một điều tuyệt vời. Lần đầu tiên chúng ta có thể giúp mỗi trẻ em tới trường và học tập chỉ trong vòng một thế hệ. Và chúng ta không cần phải sáng tạo một điều gì mới để thực hiện. Chúng ta chỉ cần học từ những điều tốt nhất ở trong lớp, nhưng không phải bất kỳ điều tốt nhất nào từ lớp học-- điều tốt nhất trong lớp của chính bạn.
What we did is actually we looked at countries by income level: low-income, mid-income, high-income. We looked at what the 25 percent fastest improvers in education do, and what we found out is that if every country moves at the same rate as the fastest improvers within their own income level, then within just one generation we can have every child in school and learning.
Trong thực tế, điều chúng tôi làm là nhìn vào các quốc gia theo mức thu nhập: thu nhập thấp, trung bình, cao. Chúng tôi nhìn vào những gì 25% những người tiến bộ nhất trong giáo dục làm, và điều chúng tôi tìm ra là nếu như mỗi quốc gia phát triển với tốc độ ngang bằng những người tiến bộ nhất trong mức thu nhập của chính họ, thì chỉ trong vòng một thế hệ chúng ta có thể giúp mỗi trẻ em tới trường và học tập.
Let me give you an example. Let's take Tunisia for example. We're not telling Tunisia, "You should move as fast as Finland." No disrespect, Finland. We're telling Tunisia, "Look at Vietnam." They spend similar amounts for primary and secondary pupils as percentage of GDP per capita, but achieves today higher results. Vietnam introduced a standardized assessment for literacy and numeracy, teachers in Vietnam are better monitored than in other developing countries, and students' achievements are made public. And it shows in the results. In the 2015 PISA -- Program for International Student Assessment -- Vietnam outperformed many wealthy economies, including the United States.
Để tôi cho bạn một ví dụ. Hãy lấy ví dụ của Tunisia. Chúng tôi không nói với Tunisia là “Bạn nên phát triển nhanh như Phần Lan” Không có gì xúc phạm nhé, Phần Lan. Chúng tôi nói với Tunisia “Hãy nhìn vào Việt Nam” Họ dành một lượng tiền tương đương cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở dựa trên phần trăm GDP đầu người, nhưng hiện nay đạt được kết quả cao hơn. Việt Nam giới thiệu một bài đánh giá tiêu chuẩn về chữ và số, giáo viên ở Việt Nam được giám sát tốt hơn ở các quốc gia đang phát triển khác, và thành tích của học sinh được công khai. Và cách làm này mang lại hiệu quả. Vào năm 2015, trong PISA -- Chương trình đánh giá học sinh quốc tế -- Việt Nam đã vượt qua nhiều nền kinh tế giàu có, bao gồm Hoa Kỳ.
Now, if you're not an education expert, you may ask, "What's new and different? Don't all countries track student progress and make those achievements public?" No. The sad answer is no. We are very far from it. Only half of the developing countries have systematic learning assessment at primary school, and even less so at lower secondary school.
Lúc này, nếu bạn không phải một chuyên gia giáo dục, bạn có thể thắc mắc: “Có gì mới và khác biệt?” Chẳng phải tất cả quốc gia đều theo dõi tiến độ học sinh và công khai điều đó sao? Không. Câu trả lời đáng buồn là không. Chúng ta còn một quãng đường rất xa. Chỉ một nửa số các quốc gia đang phát triển có phương pháp đánh giá học tập hệ thống ở bậc tiểu học, và thậm chí ít hơn ở bậc trung học cơ sở.
So if we don't know if children are learning, how are teachers supposed to focus their attention on delivering results, and how are countries supposed to prioritize education spending actually to delivering results, if they don't know if children are learning?
Vậy nếu chúng ta không biết rằng trẻ em có đang học tập hay không, giáo viên có thể làm gì để tập trung vào việc mang lại kết quả, và các quốc gia có thể làm gì để ưu tiên ngân sách giáo dục để thực sự mang lại kết quả, nếu họ không biết rằng liệu trẻ em có đang học không?
That's why the first big transformation before investing is to make the education system deliver results. Because pouring more money into broken systems may only fund more inefficiencies. And what deeply worries me -- if children go to school and don't learn, it devalues education, and it devalues spending on education, so that governments and political parties can say, "Oh, we are spending so much money on education, but children are not learning. They don't have the right skills. Maybe we should spend less."
Đó là lí do vì sao sự thay đổi lớn trước khi đầu tư là cần phải làm cho nền giáo dục mang lại kết quả. Bởi vì đầu tư vào nền giáo dục nhiều bất ổn sẽ chỉ mang lại nhiều hậu quả hơn. Và điều khiến tôi lo lắng rất nhiều -- nếu trẻ em tới trường và không học, nó sẽ làm giảm giá trị giáo dục, và làm giảm giá trị của ngân sách vào giáo dục, để rồi chính phủ và các đảng chính trị có thể nói “Ồ, chúng tôi đã dành quá nhiều tiền vào giáo dục, nhưng trẻ em đang không học. Chúng không thu được kỹ năng gì. Có lẽ chúng ta nên đầu tư ít hơn”
Now, improving current education systems to deliver results is important, but won't be enough. What about countries where we won't have enough qualified teachers? Take Somalia, for example. If every student in Somalia became a teacher -- every person who finishes tertiary education became a teacher -- we won't have enough teachers. And what about children in refugee camps, or in very remote rural areas?
Bây giờ, việc cải thiện nền giáo dục hiện tại để mang lại kết quả là điều quan trọng, nhưng không đủ. Vậy còn những quốc gia mà ở đó không có đủ giáo viên đạt tiêu chuẩn? Hãy lấy ví dụ về Somalia. Nếu mỗi học sinh ở Somalia trở thành một giáo viên -- mỗi người hoàn thiện giáo dục phổ thông trở thành một giáo viên -- chúng ta sẽ không có đủ giáo viên. Thế còn trẻ em ở trại tị nạn, hay ở những vùng nông thôn hẻo lánh?
Take Filipe, for example. Filipe lives in one of the thousands of communities alongside the Amazonas rivers. His village of 78 people has 20 families. Filipe and a fellow student were the only two attending grade 11 in 2015. Now, the Amazonas is a state in the northwest of Brazil. It's four and a half times the size of Germany, and it's fully covered in jungle and rivers. A decade ago, Filipe and his fellow student would have had just two alternatives: moving to Manaus, the capital, or stopping studying altogether, which most of them did. In 2009, however, Brazil passed a new law that made secondary education a guarantee for every Brazilian and an obligation for every state to implement this by 2016. But giving access to high-quality education, you know, in the Amazonas state, is huge and expensive. How are you going to get, you know, math and science and history teachers all over those communities? And even if you find them, many of them would not want to move there. So faced with this impossible task, civil servants and state officials developed amazing creativity and entrepreneurship. They developed the media center solution. It works this way. You have specialized, trained content teachers in Manaus delivering classroom via livestream to over a thousand classrooms in those scattered communities. Those classrooms have five to 25 students, and they're supported by a more generalist tutoring teacher for their learning and development. The 60 content teachers in Manaus work with over 2,200 tutoring teachers in those communities to customize lesson plans to the context and time.
Hãy lấy ví dụ về Filipe Filipe sống ở một trong hàng ngàn cộng đồng ở ven sông bang Amazonas. Ngôi làng gồm 78 người của cậu ấy có 20 hộ gia đình. Filipe và một người bạn học sinh là hai người duy nhất học lớp 11 năm 2015. Bang Amazonas là nằm ở phía tây bắc của Brazil. Nó có diện tích gấp 4,5 lần diện tích của Đức và được bao phủ hoàn toàn bởi rừng rậm và sông. Một thập kỷ trước, Filipe và bạn của cậu ấy chỉ có hai lựa chọn: chuyển tới thủ đô Manaus hoặc dừng việc học tập, điều mà phần lớn học sinh lựa chọn. Tuy nhiên, vào năm 2009, Brazil đưa ra một điều luật mới đảm bảo tất cả người Brazil đều sẽ được học hết bậc trung học cơ sở và yêu cầu tất cả các bang thực hiện luật này trước năm 2016. Nhưng để đảm bảo việc tiếp cận giáo dục chất lượng cao, bạn biết đấy, ở bang Amazonas, là một việc làm khó khăn và đắt đỏ? Làm sao để đưa các giáo viên toán, khoa học và lịch sử đến tất cả các cộng đồng đó? Và kể cả khi bạn tìm được họ, rất nhiều người cũng không muốn chuyển đi Khi đối mặt với nhiệm vụ bất khả thi này, các công chức và quan viên chính phủ đã thể hiện tính sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp tuyệt vời. Họ đã phát triển một giải pháp truyền thông trung tâm. Nó hoạt động thế này. Bạn có một đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp được đào tạo nội dung ở Manaus phát bài giảng trực tiếp tới hơn một nghìn lớp học ở các cộng đồng rải rác đó. Những lớp học này có từ 5 tới 25 học sinh, và được hỗ trợ bởi một giáo viên trợ giảng tổng quát để đảm bảo việc học tập và phát triển. 60 giáo viên nội dung ở Manaus làm việc với hơn 2200 giáo viên trợ giảng ở những cộng đồng đó để điều chỉnh kế hoạch bài giảng phù hợp với bối cảnh và thời gian.
Now, why is this division between content teacher and tutoring teacher important? First of all, as I told you, because in many countries, we just don't have enough qualified teachers. But secondly also because teachers do too many things they're either not trained for or not supposed to do.
Bây giờ thì, tại sao sự phân chia giữa giáo viên nội dung và giáo viên trợ giảng lại quan trọng? Đầu tư, như tôi đã nói, bởi vì ở nhiều quốc gia, chúng ta không có đủ giáo viên đạt tiêu chuẩn. Nhưng thứ hai là vì giáo viên phải làm quá nhiều việc mà họ không được đào tạo để làm hoặc không cần phải làm.
Let's look at Chile, for example. In Chile, for every doctor, you have four and a half people, four and a half staff supporting them, and Chile is on the low end of the spectrum here, because in developing countries, on average, every doctor has 10 people supporting them. A teacher in Chile, however, has less than half a person, 0.3 persons, supporting them.
Hãy lấy ví dụ về Chile. Ở Chile, với mỗi bác sĩ, sẽ có 4,5 người, 4,5 nhân viên hỗ trợ họ, và Chile là một quốc gia ở mức thấp so với các quốc gia khác, vì trung bình ở các nước đang phát triển, mỗi bác sĩ sẽ có 10 người hỗ trợ họ. Tuy nhiên, một giáo viên ở Chile có ít hơn một nửa người, 0,3 người hỗ trợ họ.
Imagine a hospital ward with 20, 40, 70 patients and you have a doctor doing it all by themselves: no nurses, no medical assistants, no one else. You will say this is absurd and impossible, but this is what teachers are doing all over the world every day with classrooms of 20, 40, or 70 students.
Tưởng tượng một bệnh viện với 20, 40, 70 bệnh nhân và một bác sĩ phải tự xử lí mọi chuyện: không y tá, không nhân viên hỗ trợ y tế, không ai khác. Bạn sẽ nói điều này là vô lí và bất khả thi, nhưng đây là điều giáo viên trên thế giới đang đối mặt mỗi ngày trong lớp học có 20, 40, 70 học sinh.
So this division between content and tutoring teachers is amazing because it is changing the paradigm of the teacher, so that each does what they can do best and so that children are not just in school but in school and learning. And some of these content teachers, they became celebrity teachers. You know, some of them run for office, and they helped raise the status of the profession so that more students wanted to become teachers.
Do đó sự phân chia giữa giáo viên nội dung và giáo viên trợ giảng rất tuyệt vời bởi vì nó đang thay đổi mô phạm của giáo viên, để mỗi người có thể làm công việc mà họ làm tốt nhất và để trẻ em không chỉ tới trường mà tới trường và học tập. Và một vài giáo viên nội dung này đã trở thành giáo viên thần tượng. Bạn biết đấy, một người đã tranh cử, và họ giúp tăng vị thế của ngành để nhiều học sinh muốn trở thành giáo viên hơn.
And what I love about this example is beyond changing the paradigm of the teacher. It teaches us how we can harness technology for learning. The live-streaming is bidirectional, so students like Filipe and others can present information back. And we know technology is not always perfect. You know, state officials expect between five to 15 percent of the classrooms every day to be off live-stream because of flood, broken antennas or internet not working. And yet, Filipe is one of over 300,000 students that benefited from the media center solution and got access to postprimary education. This is a living example how technology is not just an add-on but can be central to learning and can help us bring school to children if we cannot bring children to school.
Điều tôi thích ở ví dụ này không chỉ ở việc nó đã thay đổi góc nhìn về nghề giáo. Nó còn dạy chúng ta cách sử dụng công nghệ để học tập. Việc phát trực tiếp cho phép tương tác hai chiều nên những học sinh như Filipe có thể tương tác ngược lại. Và chúng ta biết công nghệ không phải luôn hoàn hảo. Bạn biết đây, quan chức địa phương dự tính khoảng 5% tới 15% các lớp học không được phát trực tiếp mỗi ngày do lũ, ăng ten hỏng, hoặc internet không hoạt động. Và tuy nhiên, Filipe là một trong số hơn 300 000 học sinh nhận được lợi ích từ giải pháp truyền thông trung tâm và được tiếp cận giáo dục sau tiểu học. Đây là một ví dụ sống để chứng minh công nghệ không chỉ là một công cụ hỗ trợ mà còn có vai trò quan trọng trong học tập và có thể giúp đưa trường học tới trẻ nếu chúng ta không thể đưa trẻ tới trường.
Now, I hear you. You're going to say, "How are we going to implement this all over the world?" I've been in government myself and have seen how difficult it is even to implement the best ideas. So as a commission, we started two initiatives to make the "Learning Generation" a reality. The first one is called the Pioneer Country Initiative. Over 20 countries from Africa and Asia have committed to make education their priority and to transform their education systems to deliver results. We've trained country leaders in a methodology called the delivery approach. What this does is basically two things. In the planning phase, we take everyone into a room -- teachers, teacher unions, parent associations, government officials, NGOs, everyone -- so that the reform and the solution we come up with are shared by everyone and supported by everyone. And in the second phase, it does something special. It's kind of a ruthless focus on follow-up. So week by week you check, has that been done, what was supposed to be done, and even sometimes sending a person physically to the district or school to check that versus just hoping that it happened. It may sound for many common sense, but it's not common practice, and that's why actually many reforms fail. It has been piloted in Tanzania, and there the pass rate for students in secondary education was increased by 50 percent in just over two years.
Lúc này, tôi nghe thấy bạn đấy. Bạn sẽ nói “Làm sao để chúng ta thực hiện điều này trên toàn thế giới?” Bản thân tôi đã từng làm việc trong chính phủ và đã chứng kiến sự khó khăn kể cả khi thực hiện ý tưởng tốt nhất. Và trong ủy bản, chúng tôi đã bắt đầu hai sáng kiến để biến “Thế hệ học tập” thành một hiện thực. Sáng kiến đầu tiên được gọi là Sáng kiến Quốc gia Tiên phong. Hơn 20 quốc gia ở châu Phi và châu Á đã cam kết đặt giáo dục lên ưu tiên và cải thiện nền giáo dục để mang lại kết quả. Chúng tôi đã đào tạo các nguyên thủ quốc gia qua một phương pháp gọi là phương thức truyền tải Phương pháp này gồm hai điều cơ bản. Trong quá trình lên kế hoạch, chúng tôi đưa mọi người vào một phòng -- giáo viên, liên đoàn giáo viên, hội phụ huynh, quan chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ, mọi người -- để những cải cách và giải pháp chúng tôi tìm ra được mọi người đóng góp và hỗ trợ. Và trong giai đoạn thứ hai, có một công việc đặc biệt. Việc này tập trung vào theo dõi cao độ các công việc tiếp theo. Vì thế hàng tuần bạn sẽ kiểm tra những công việc được hoàn thành và đáng ra cần được hoàn thành, và đôi khi là phái một người đi tới quận hoặc trường học để kiểm tra báo cáo đó với mong muốn tiến độ được đảm bảo. Điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng lại không phải một điều thường được làm, và đó là lí do vì sao nhiều cuộc cải cách thất bại. Chính sách này đã được thực hiện ở Tanzania, và ở đó, tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh trung học cơ sở đã tăng thêm 50% chỉ trong hơn 2 năm.
Now, the next initiative to make the Learning Generation a reality is financing. Who's going to pay for this? So we believe and argue that domestic financing has to be the backbone of education investment. Do you remember when I told you about Vietnam earlier outperforming the United States in PISA? That's due to a better education system, but also to Vietnam increasing their investment from seven to 20 percent of their national budget in two decades.
Bây giờ, sáng kiến tiếp theo để biến Thế hệ Học tập thành một thực tại là tài chính. Ai sẽ trả cho sáng kiến này? Vì thế chúng tôi tin rằng tài chính quốc nội cần phải trở thành xương sống của đầu tư giáo dục. Bạn có nhớ khi tôi kể về Việt Nam đã vượt qua Hoa Kỳ trong bài kiểm tra PISA? Đó là nhờ một hệ thống giáo dục tốt hơn, nhưng cũng nhờ Việt Nam đã tăng mức đầu tư từ 7% lên 20% ngân sách quốc gia trong hai thập kỷ.
But what happens if countries want to borrow money for education? If you wanted to borrow money to build a bridge or a road, it's quite easy and straightforward, but not for education. It's easier to make a shiny picture of a bridge and show it to everyone than one of an educated mind. That's kind of a longer term commitment.
Nhưng chuyện gì xảy ra khi các quốc gia muốn vay tiền cho giáo dục? Nếu bạn muốn vay tiền để xây cầu hoặc đường, điều đó sẽ khá dễ và thẳng thắn, nhưng không phải cho giáo dục. Việc xây dựng một bức tranh đẹp đẽ về một cây cầu sẽ dễ hơn một bức tranh về một bộ óc được giáo dục. Điều này giống như một cam kết dài hạn.
So we came up with a solution to help countries escape the middle income trap, countries that are not poor enough or not poor, thankfully, anymore, that cannot profit from grants or interest-free loans, and they're not rich enough to be able to have attractive interests on their loans. So we're pooling donor money in a finance facility for education, which will provide more finance for education. We will subsidize, or even eliminate completely, interest payments on the loans so that countries that commit to reforms can borrow money, reform their education system, and pay this money over time while benefiting from a better-educated population. This solution has been recognized in the last G20 meeting in Germany, and so finally today education is on the international agenda.
Vì thế chúng tôi đã đưa ra một giải pháp để giúp các quốc gia thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình, những quốc gia không đủ nghèo hoặc may mắn là không còn nghèo mà không thể thu lợi từ trợ cấp hoặc khoản vay không lãi suất, và họ không đủ giàu để mang lại những lãi suất hấp dẫn trong khoản vay. Vì thế chúng ta sẽ góp tiền vào một cơ sở tài chính cho giáo dục để trợ cấp nhiều hơn cho giáo dục. Chúng ta sẽ trợ cấp, thậm chí loại bỏ hoàn toàn các khoản lãi suất cho vay để các quốc gia cam kết cải cách có thể vay tiền, cải cách nền giáo dục của họ, và dần trả lại khoản tiền này trong khi mang lại lợi ích cho dân số được giáo dục tốt hơn. Giải pháp này đã được công nhận trong hội nghị G20 gần nhất tại Đức, và để cuối cùng thì ngày nay giáo dục cũng trở thành một mục tiêu quốc tế.
But let me bring this back to the personal level, because this is where the impact lands. Without that decision to invest a young country's budget, 20 percent of a young country's budget in education, I would have never been able to go to school, let alone in 2014 becoming a minister in the government that successfully ended the transition phase. Tunisia's Nobel Peace Prize in 2015 as the only democracy that emerged from the Arab Spring is a legacy to that bold leadership decision. Education is the civil rights struggle, it's the human rights struggle of our generation. Quality education for all: that's the freedom fight that we've got to win.
Nhưng để tôi đưa điều này về một mức độ cá nhân, bởi vì đây là phạm vi ảnh hưởng chính. Nếu quốc gia mới thành lập ấy không quyết định đầu tư 20% ngân sách quốc gia mới thành lập vào giáo dục, tôi đã không bao giờ có thể tới trường, nói gì tới năm 2014, trở thành một bộ trưởng trong chính phủ để thành công kết thúc giai đoạn chuyển dịch. Giải Nobel Hòa bình cho Tunisia vào 2015 với tư cách là nền dân chủ duy nhất phát triển từ Mùa xuân Ả rập là một di sản của quyết định lãnh đạo táo bạo khi đó. Giáo dục là một cuộc đấu tranh của quyền công dân, là cuộc đấu tranh quyền con người của thế hệ chúng ta. Giáo dục chất lượng cho tất cả: đó là cuộc chiến tự do mà chúng ta phải thắng.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)