Today, actually, is a very special day for me, because it is my birthday.
Thật ra, hôm nay là một ngày rất đặc biệt với tôi, vì hôm nay là sinh nhật tôi.
(Applause)
(Vỗ tay)
And so, thanks to all of you for joining the party.
Vậy nên, cảm ơn mọi người đã đến dự bữa tiệc hôm nay.
(Laughter)
(Cười)
But every time you throw a party, there's someone there to spoil it. Right?
Nhưng mỗi khi bạn mở tiệc, sẽ luôn có một kẻ phá đám. Phải không?
(Laughter)
(Cười)
And I'm a physicist, and this time I brought another physicist along to do so. His name is Albert Einstein -- also Albert -- and he's the one who said that the person who has not made his great contributions to science by the age of 30 will never do so.
Tôi là một nhà vật lí học, và lần này, tôi mời một nhà vật lí khác đến để phá tiệc. Ông ấy là Albert Einstein, gọi là Albert, người đã từng nói rằng nếu một người chưa có đóng góp vĩ đại nào cho khoa học trước tuổi 30, sẽ chẳng có đóng góp vĩ đại nào cả.
(Laughter)
(Cười)
Now, you don't need to check Wikipedia that I'm beyond 30.
Các bạn không cần tra Wikipedia cũng biết là tôi đã ngoài 30 tuổi.
(Laughter)
(Cười)
So, effectively, what he is telling me, and us, is that when it comes to my science, I'm deadwood. Well, luckily, I had my share of luck within my career. Around age 28, I became very interested in networks, and a few years later, we managed to publish a few key papers that reported the discovery of scale-free networks and really gave birth to a new discipline that we call network science today. And if you really care about it, you can get a PhD now in network science in Budapest, in Boston, and you can study it all over the world.
Nên theo như điều mà ông ấy nói với tôi và các bạn, xét về phương diện khoa học, tôi là một đứa vô dụng. May thay, tôi đã gặp may mắn trong sự nghiệp của mình. Ở tuổi 28, tôi trở nên rất hứng thú với các mạng lưới. Vài năm sau, chúng tôi đã công bố một số bài nghiên cứu quan trọng về sự khám phá ra các mạng lưới không có quy mô và hình thành nên một bộ môn mới mà ngày nay được gọi là khoa học mạng. Nếu thực sự quan tâm, bạn có thể nhận bằng tiến sĩ về khoa học mạng ở Budapest, ở Boston, và có thể nghiên cứu từ mọi nơi trên thế giới.
A few years later, when I moved to Harvard first as a sabbatical, I became interested in another type of network: that time, the networks within ourselves, how the genes and the proteins and the metabolites link to each other and how they connect to disease. And that interest led to a major explosion within medicine, including the Network Medicine Division at Harvard, that has more than 300 researchers who are using this perspective to treat patients and develop new cures.
Vài năm sau, khi tôi đến Harvard lần đầu với tư cách là giảng viên nghỉ phép, tôi lại có hứng thú với một loại mạng lưới khác: mạng lưới trong người chính chúng ta, cách mà gen, protein và các chất chuyển hoá liên hệ với nhau và liên hệ giữa chúng với bệnh tật. Sự hứng thú đó dẫn đến một sự bùng nổ trong ngành y tế, bao gồm cả khoa Y học Mạng ở Harvard có hơn 300 nhà nghiên cứu đang áp dụng quan điểm này để điều trị bệnh nhân và phát triển phương pháp chữa trị mới.
And a few years ago, I thought that I would take this idea of networks and the expertise we had in networks in a different area, that is, to understand success. And why did we do that? Well, we thought that, to some degree, our success is determined by the networks we're part of -- that our networks can push us forward, they can pull us back. And I was curious if we could use the knowledge and big data and expertise where we develop the networks to really quantify how these things happen.
Vài năm trước, tôi nghĩ mình sẽ áp dụng ý tưởng về mạng lưới và chuyên môn về các mạng lưới vào một lĩnh vực khác, đó là phân tích sự thành công. Vì sao chúng tôi làm vậy? Chúng tôi cho rằng, ở một mức độ nào đó, thành công được quyết định bởi những mạng lưới mà chúng ta tham gia, rằng những mạng lưới này có thể thúc đẩy hoặc đẩy lùi chúng ta. Tôi tò mò muốn biết liệu có thể sử dụng kiến thức, dữ liệu chung và chuyên môn về phát triển mạng lưới để xác định cách thức những điều này xảy ra.
This is a result from that. What you see here is a network of galleries in museums that connect to each other. And through this map that we mapped out last year, we are able to predict very accurately the success of an artist if you give me the first five exhibits that he or she had in their career.
Đây là kết quả thu được. Bạn đang thấy một mạng lưới những buổi triển lãm ở bảo tàng có liên kết với nhau. Qua bản đồ mà chúng tôi đã vẽ năm ngoái, chúng tôi có thể dự đoán chính xác sự thành công của một người hoạ sĩ nếu được xem năm triển lãm đầu tay trong sự nghiệp của hoạ sĩ đó.
Well, as we thought about success, we realized that success is not only about networks; there are so many other dimensions to that. And one of the things we need for success, obviously, is performance. So let's define what's the difference between performance and success. Well, performance is what you do: how fast you run, what kind of paintings you paint, what kind of papers you publish. However, in our working definition, success is about what the community notices from what you did, from your performance: How does it acknowledge it, and how does it reward you for it? In other terms, your performance is about you, but your success is about all of us. And this was a very important shift for us, because the moment we defined success as being a collective measure that the community provides to us, it became measurable, because if it's in the community, there are multiple data points about that. So we go to school, we exercise, we practice, because we believe that performance leads to success. But the way we actually started to explore, we realized that performance and success are very, very different animals when it comes to the mathematics of the problem. And let me illustrate that.
Khi nghĩ về thành công, chúng tôi nhận ra nó không chỉ liên quan đến những mạng lưới mà còn có nhiều yếu tố xung quanh nữa. Một trong những điều cần thiết để thành công, dĩ nhiên là sự thể hiện. Hãy cùng định nghĩa điểm khác biệt giữa sự thể hiện và thành công. Sự thể hiện là những gì bạn làm: bạn chạy nhanh đến đâu, thể loại tranh bạn vẽ, thể loại sách bạn xuất bản. Tuy nhiên, trong định nghĩa của chúng tôi, thành công là những gì xã hội nhìn thấy từ những việc bạn làm, từ những gì bạn thể hiện: Xã hội thừa nhận và trao thưởng cho bạn vì thành công bằng cách nào? Nói một cách khác, sự thể hiện của bạn là về bạn, thành công của bạn là về tất cả mọi người. Đây là một sự chuyển đổi quan trọng với chúng ta, bởi khoảnh khắc chúng ta định nghĩa thành công là một thước đo chung mà xã hội đã trao cho chúng ta, thành công trở nên đo lường được, vì nếu nó hiện diện trong cộng đồng sẽ có rất nhiều dữ liệu về nó. Vậy nên chúng ta đến trường, thực hành và luyện tập với niềm tin rằng có thực hiện mới có thành công. Nhưng khi chúng ta thực sự khám phá, ta nhận ra sự thể hiện và thành công là hai yếu tố cực kỳ khác biệt xét về phép toán của những vấn đề. Để tôi giải thích nhé.
So what you see here is the fastest man on earth, Usain Bolt. And of course, he wins most of the competitions that he enters. And we know he's the fastest on earth because we have a chronometer to measure his speed. Well, what is interesting about him is that when he wins, he doesn't do so by really significantly outrunning his competition. He's running at most a percent faster than the one who loses the race. And not only does he run only one percent faster than the second one, but he doesn't run 10 times faster than I do -- and I'm not a good runner, trust me on that.
Bạn đang thấy người đàn ông chạy nhanh nhất thế giới, Usain Bolt. Tất nhiên, anh ta chiến thắng hầu hết các cuộc thi mà mình tham dự. Ta biết anh ta chạy nhanh nhất thế giới vì có đồng hồ bấm giờ để đo tốc độ. Điều thú vị ở anh ta là khi chiến thắng, anh ta không thắng vì vượt trội hơn hẳn các đối thủ của mình. Anh chạy nhanh hơn người thua cuộc nhiều nhất là 1%. Không những chạy nhanh hơn người về thứ nhì chỉ 1%, anh ấy chạy nhanh hơn tôi cũng chưa tới 10 lần -- tin tôi đi, tôi không hề chạy giỏi.
(Laughter)
(Cười)
And every time we are able to measure performance, we notice something very interesting; that is, performance is bounded. What it means is that there are no huge variations in human performance. It varies only in a narrow range, and we do need the chronometer to measure the differences. This is not to say that we cannot see the good from the best ones, but the best ones are very hard to distinguish. And the problem with that is that most of us work in areas where we do not have a chronometer to gauge our performance.
Mỗi lần chúng tôi đo được sự thể hiện, chúng tôi lại khám phá ra một điều thú vị: sự thể hiện có giới hạn. Nghĩa là không có biến động nào lớn trong sự thể hiện của con người. Nó chỉ biến động ở một phạm vi hẹp, và chúng tôi cần đồng hồ bấm giờ để tính toán sự khác biệt. Không phải chúng tôi không thấy điểm tốt ở những cá nhân xuất sắc, mà là rất khó để phân biệt các cá nhân xuất sắc. Vấn đề ở chỗ hầu hết chúng ta làm việc ở những nơi không có đồng hồ bấm giờ để đo hiệu quả làm việc.
Alright, performance is bounded, there are no huge differences between us when it comes to our performance. How about success? Well, let's switch to a different topic, like books. One measure of success for writers is how many people read your work. And so when my previous book came out in 2009, I was in Europe talking with my editor, and I was interested: Who is the competition? And I had some fabulous ones. That week --
Sự thể hiện thì có hạn, nếu xét về sự thể hiện, giữa chúng ta không có khác biệt nào quá lớn. Thành công thì sao? Hãy chuyển sang chủ đề khác, chẳng hạn như sách. Một trong những thước đo thành công của các nhà văn là số người đọc tác phẩm của họ. Khi quyển sách trước của tôi được xuất bản năm 2009, tôi đang ở châu Âu trò chuyện với biên tập của mình. và tôi để tâm đến chuyện: Ai là đối thủ (của tôi)? Và tôi có vài đối thủ tuyệt vời. Tuần đó --
(Laughter)
(Cười)
Dan Brown came out with "The Lost Symbol," and "The Last Song" also came out, Nicholas Sparks. And when you just look at the list, you realize, you know, performance-wise, there's hardly any difference between these books or mine. Right? So maybe if Nicholas Sparks's team works a little harder, he could easily be number one, because it's almost by accident who ended up at the top. So I said, let's look at the numbers -- I'm a data person, right? So let's see what were the sales for Nicholas Sparks. And it turns out that that opening weekend, Nicholas Sparks sold more than a hundred thousand copies, which is an amazing number. You can actually get to the top of the "New York Times" best-seller list by selling 10,000 copies a week, so he tenfold overcame what he needed to be number one. Yet he wasn't number one. Why? Because there was Dan Brown, who sold 1.2 million copies that weekend.
Dan Brown chào sân bằng cuốn “Biểu tượng thất truyền” và “Bản tình ca cuối cùng” của Nicholas Sparks cũng ra mắt. Khi nhìn vào danh sách, bạn nhận ra, về mặt thể hiện thì ít có sự khác biệt nào giữa những cuốn sách này và sách của tôi. Đúng không? Có thể nếu đội ngũ của Nicholas Sparks làm việc chăm chỉ hơn một chút, anh ấy sẽ dễ dàng dẫn đầu, vì việc anh ấy xếp hạng nhất gần như là tình cờ. Nên hãy xét đến những con số -- tôi là con người của dữ liệu nhỉ? Nhìn vào doanh thu của Nicholas Sparks. Hoá ra là vào cuối tuần mở bán đó, Nicholas Sparks bán được hơn 100 ngàn bản, một con số ấn tượng. Bạn có thể lọt vào danh sách sách bán chạy nhất của New York Times với 10.000 bản bán ra mỗi tuần, và anh ấy đã vượt 10 lần con số đó để trở thành người đứng đầu. Nhưng, anh ấy không dẫn đầu. Tại sao vậy? Bởi vì Dan Brown đã bán 1,2 triệu bản vào tuần đó.
(Laughter)
(Cười)
And the reason I like this number is because it shows that, really, when it comes to success, it's unbounded, that the best doesn't only get slightly more than the second best but gets orders of magnitude more, because success is a collective measure. We give it to them, rather than we earn it through our performance.
Lí do tôi thích con số này là vì nó thực sự cho thấy thành công không có giới hạn, người giỏi nhất không những giỏi hơn người thứ hai chút ít mà là giỏi hơn rất nhiều, bởi thành công là một thước đo tập thể. Ta trao nó cho người khác, thay vì giành được nó qua những gì mình thể hiện.
So one of things we realized is that performance, what we do, is bounded, but success, which is collective, is unbounded, which makes you wonder: How do you get these huge differences in success when you have such tiny differences in performance? And recently, I published a book that I devoted to that very question. And they didn't give me enough time to go over all of that, so I'm going to go back to the question of, alright, you have success; when should that appear?
Một trong những điều chúng tôi nhận ra là sự thể hiện, những gì ta làm, có giới hạn, còn thành công, có tính tập thể, thì không có giới hạn. Điều này khiến bạn tự hỏi: Làm sao để đạt được những khác biệt đáng kể trong thành công khi có rất ít khác biệt trong sự thể hiện? Gần đây, tôi đã xuất bản cuốn sách bàn về câu hỏi đó. Nhưng tôi không có thời gian để nói về toàn bộ cuốn sách, nên tôi sẽ quay lại với câu hỏi, được rồi, bạn có thể thành công, khi nào điều đó mới xuất hiện?
So let's go back to the party spoiler and ask ourselves: Why did Einstein make this ridiculous statement, that only before 30 you could actually be creative? Well, because he looked around himself and he saw all these fabulous physicists that created quantum mechanics and modern physics, and they were all in their 20s and early 30s when they did so. And it's not only him. It's not only observational bias, because there's actually a whole field of genius research that has documented the fact that, if we look at the people we admire from the past and then look at what age they made their biggest contribution, whether that's music, whether that's science, whether that's engineering, most of them tend to do so in their 20s, 30s, early 40s at most. But there's a problem with this genius research. Well, first of all, it created the impression to us that creativity equals youth, which is painful, right?
Hãy cùng trở lại với kẻ phá hủy bữa tiệc và tự hỏi bản thân: Vì sao Einstein lại nói điều vớ vẩn như vậy, rằng bạn chỉ có thể thật sự sáng tạo trước tuổi 30? Bởi vì ông ấy nhìn quanh và nhận thấy những nhà vật lí học vĩ đại tạo nên ngành cơ học lượng tử và vật lí học hiện đại, đều ở tuổi hai mươi mấy hoặc ba mươi khi họ tạo nên thành tựu đó. Và không chỉ có mỗi ông. Điều này không chỉ là thiên kiến quan sát, bởi có hẳn một lĩnh vực nghiên cứu các thiên tài ghi nhận một sự thật rằng, nếu nhìn vào những người mà ta ngưỡng mộ trong quá khứ và nhìn độ tuổi mà họ đạt được những đóng góp to lớn nhất, dù là trong ngành âm nhạc, khoa học hay kĩ thuật, khi đó, hầu hết họ khoảng từ 20, 30, nhiều nhất là đầu 40 tuổi. Nhưng có một vấn đề ở cuộc nghiên cứu các thiên tài này. Đầu tiên, nó đã tạo một ấn tượng rằng sức sáng tạo tương đương với tuổi trẻ, điều này khá đau lòng nhỉ?
(Laughter)
(Cười)
And it also has an observational bias, because it only looks at geniuses and doesn't look at ordinary scientists and doesn't look at all of us and ask, is it really true that creativity vanishes as we age? So that's exactly what we tried to do, and this is important for that to actually have references.
Và cũng tồn tại thiên kiến quan sát, vì nó tập trung vào thiên tài mà bỏ qua những nhà khoa học bình thường, và chẳng tìm đến tất cả chúng ta để hỏi, có thực sự là sức sáng tạo sẽ biến mất khi chúng ta già đi? Đó chính là điều chúng tôi thử làm, và quan trọng là điều đó phải thật sự có dẫn chứng.
So let's look at an ordinary scientist like myself, and let's look at my career. So what you see here is all the papers that I've published from my very first paper, in 1989; I was still in Romania when I did so, till kind of this year. And vertically, you see the impact of the paper, that is, how many citations, how many other papers have been written that cited that work. And when you look at that, you see that my career has roughly three different stages. I had the first 10 years where I had to work a lot and I don't achieve much. No one seems to care about what I do, right? There's hardly any impact.
Cùng nhìn vào những nhà khoa học bình thường như tôi, và xét về sự nghiệp của tôi. Cái bạn thấy ở đây là những bài nghiên cứu mà tôi đã công bố từ bài nghiên cứu đầu tiên vào năm 1989, lúc đó tôi vẫn ở Romania, cho đến tận năm nay. Theo chiều dọc, bạn sẽ thấy tầm ảnh hưởng của nghiên cứu, đó là số lần trích dẫn, số lần những bài nghiên cứu khác trích dẫn bài của tôi. Nhìn vào đó, bạn sẽ thấy sự nghiệp của tôi được chia làm khoảng ba giai đoạn. Mười năm đầu tôi làm việc rất nhiều mà không gặt hái được gì. Dường như không ai để ý đến tôi, nhỉ? Hầu như không có sức ảnh hưởng.
(Laughter)
(Cười)
That time, I was doing material science, and then I kind of discovered for myself networks and then started publishing in networks. And that led from one high-impact paper to the other one. And it really felt good. That was that stage of my career.
Thời điểm đó, tôi đang nghiên cứu khoa học vật liệu và sau đó tự mình khám phá ra những mạng lưới và dần công bố nghiên cứu về mạng lưới. Và những bài báo mang tầm ảnh hưởng lớn dần nối tiếp nhau. Thật tuyệt, đó là giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp của tôi.
(Laughter)
(Cười)
So the question is, what happens right now? And we don't know, because there hasn't been enough time passed yet to actually figure out how much impact those papers will get; it takes time to acquire. Well, when you look at the data, it seems to be that Einstein, the genius research, is right, and I'm at that stage of my career.
Câu hỏi đặt ra là: Hiện tại, điều gì đang diễn ra? Chúng ta không biết vì chưa có đủ thời gian để biết những bài nghiên cứu đó có sức ảnh hưởng tới đâu; thành tựu cần thời gian. Chà, nhìn vào dữ liệu, có vẻ như Einstein và nghiên cứu về các thiên tài đã đúng, tôi đang ở giai đoạn đó của sự nghiệp.
(Laughter)
(Cười)
So we said, OK, let's figure out how does this really happen, first in science. And in order not to have the selection bias, to look only at geniuses, we ended up reconstructing the career of every single scientist from 1900 till today and finding for all scientists what was their personal best, whether they got the Nobel Prize or they never did, or no one knows what they did, even their personal best. And that's what you see in this slide. Each line is a career, and when you have a light blue dot on the top of that career, it says that was their personal best. And the question is, when did they actually make their biggest discovery? To quantify that, we look at what's the probability that you make your biggest discovery, let's say, one, two, three or 10 years into your career? We're not looking at real age. We're looking at what we call "academic age." Your academic age starts when you publish your first papers. I know some of you are still babies.
Chúng tôi nói, được rồi, thử tìm hiểu xem điều này thực sự xảy ra thế nào, đầu tiên là ở lĩnh vực khoa học. Để tránh thiên kiến về lựa chọn, tức là chỉ xét các thiên tài, chúng tôi tái hiện lại sự nghiệp của từng nhà khoa học từ năm 1900 đến nay và tìm ra thành tựu cá nhân vĩ đại nhất của họ, họ có nhận được giải Nobel hay không, hoặc không ai biết họ đã làm gì, kể cả thành tựu lớn nhất của riêng họ. Bạn sẽ thấy trên màn hình chiếu. Mỗi dòng kẻ là một sự nghiệp và mỗi chấm sáng xanh nhạt trên dòng kẻ chính là đỉnh cao trong sự nghiệp của họ. Câu hỏi đặt ra là, họ thực sự đạt được phát hiện vĩ đại nhất khi nào? Để trả lời câu hỏi đó, chúng tôi xác định xác suất khi bạn đạt được phát minh vĩ đại đó, giả sử bạn có 1, 2, 3 hay 10 năm kinh nghiệm trong nghề? Không tính theo tuổi thật, mà xét theo “tuổi học vấn.” Tuổi học vấn bắt đầu khi bạn công bố nghiên cứu đầu tiên của mình. Tôi biết một số bạn vẫn còn là em bé. (Cười)
(Laughter)
So let's look at the probability that you publish your highest-impact paper. And what you see is, indeed, the genius research is right. Most scientists tend to publish their highest-impact paper in the first 10, 15 years in their career, and it tanks after that. It tanks so fast that I'm about -- I'm exactly 30 years into my career, and the chance that I will publish a paper that would have a higher impact than anything that I did before is less than one percent. I am in that stage of my career, according to this data. But there's a problem with that. We're not doing controls properly. So the control would be, what would a scientist look like who makes random contribution to science? Or what is the productivity of the scientist? When do they write papers? So we measured the productivity, and amazingly, the productivity, your likelihood of writing a paper in year one, 10 or 20 in your career, is indistinguishable from the likelihood of having the impact in that part of your career.
Cùng nhìn vào xác suất bạn công bố nghiên cứu có ảnh hưởng lớn nhất . Thật vậy, bạn nhận thấy rằng nghiên cứu về thiên tài đã đúng. Hầu hết các nhà nhà khoa học có xu hướng công bố nghiên cứu quan trọng nhất trong khoảng 10, 15 năm đầu sự nghiệp. Và xác suất sau đó giảm dần. Nó giảm nhanh đến nỗi tôi sắp -- tôi đã có 30 năm kinh nghiệm trong ngành, khả năng mà tôi công bố nghiên cứu mang tầm ảnh hưởng lớn hơn những nghiên cứu trước đây của tôi là ít hơn 1%. Sự nghiệp tôi đang ở trong giai đoạn đó theo như dữ liệu ở đây. Nhưng có một vấn đề. Chúng ta đối chứng chưa đúng đắn. Cách đối chứng sẽ là một nhà khoa tạo ra những cống hiến ngẫu nhiên cho khoa học sẽ trông ra sao? Hoặc đâu là năng suất của nhà khoa học? Khi nào họ viết các bài nghiên cứu? Chúng tôi đo lường năng suất, và ngạc nhiên thay, năng suất, khả năng bạn viết một bài nghiên cứu ở năm đầu, năm thứ 10 hay 20 trong sự nghiệp, cũng tương tự khả năng tạo được ảnh hưởng vào những năm đó trong cả sự nghiệp.
And to make a long story short, after lots of statistical tests, there's only one explanation for that, that really, the way we scientists work is that every single paper we write, every project we do, has exactly the same chance of being our personal best. That is, discovery is like a lottery ticket. And the more lottery tickets we buy, the higher our chances. And it happens to be so that most scientists buy most of their lottery tickets in the first 10, 15 years of their career, and after that, their productivity decreases. They're not buying any more lottery tickets. So it looks as if they would not be creative. In reality, they stopped trying. So when we actually put the data together, the conclusion is very simple: success can come at any time. It could be your very first or very last paper of your career. It's totally random in the space of the projects. It is the productivity that changes.
Và để rút ngắn câu chuyện, sau rất nhiều kiểm tra thống kê, chỉ có một lời giải thích duy nhất cho điều đó, cách các nhà khoa học làm việc chính là mỗi bài báo chúng tôi viết, mỗi dự án chúng tôi làm, đều có cùng khả năng trở thành thành tựu lớn nhất của chúng tôi. Đó là khám phá khoa học giống như tấm vé số, nhỉ? Như một tấm vé số. Và chúng ta càng mua nhiều vé số, cơ may của chúng ta càng cao. Và tương tự, phần lớn các nhà khoa học mua phần lớn vé số của họ trong 10 hay 15 năm đầu tiên của sự nghiệp. Và sau đó, năng suất giảm dần. Họ chẳng còn mua vé số nữa. Điều này giống như thể họ đã ngừng sáng tạo. Thực tế, họ ngừng cố gắng. Khi chúng ta tổng hợp dữ kiện lại, kết luận rất đơn giản: thành công có thể đến bất cứ lúc nào. Nó có thể là bài nghiên cứu đầu tiên hoặc cuối cùng trong sự nghiệp của bạn. Nó hoàn toàn ngẫu nhiên trong các dự án của bạn. Năng suất là thứ mang lại thay đổi.
Let me illustrate that. Here is Frank Wilczek, who got the Nobel Prize in Physics for the very first paper he ever wrote in his career as a graduate student.
Hãy để tôi mô tả điều đó. Đây là Frank Wilczek, người đạt giải Nobel Vật lý nhờ bài nghiên cứu đầu tiên mà ông viết khi đang là nghiên cứu sinh.
(Laughter)
(Cười)
More interesting is John Fenn, who, at age 70, was forcefully retired by Yale University. They shut his lab down, and at that moment, he moved to Virginia Commonwealth University, opened another lab, and it is there, at age 72, that he published a paper for which, 15 years later, he got the Nobel Prize for Chemistry.
Thú vị hơn là trường hợp của John Fenn, người bị Đại học Yale buộc nghỉ hưu ở tuổi 70. Họ đóng cửa phòng thí nghiệm của ông, và lúc đó, ông chuyển về Trường Đại học Virginia Commonwealth, và mở một phòng thí nghiệm mới, và ở đó, ở tuổi 72, ông đã công bố một nghiên cứu mà nhờ vào đó, 15 năm sau, ông đã giành giải Nobel Hóa học.
And you think, OK, well, science is special, but what about other areas where we need to be creative? So let me take another typical example: entrepreneurship. Silicon Valley, the land of the youth, right? And indeed, when you look at it, you realize that the biggest awards, the TechCrunch Awards and other awards, are all going to people whose average age is late 20s, very early 30s. You look at who the VCs give the money to, some of the biggest VC firms -- all people in their early 30s. Which, of course, we know; there is this ethos in Silicon Valley that youth equals success. Not when you look at the data, because it's not only about forming a company -- forming a company is like productivity, trying, trying, trying -- when you look at which of these individuals actually put out a successful company, a successful exit. And recently, some of our colleagues looked at exactly that question. And it turns out that yes, those in the 20s and 30s put out a huge number of companies, form lots of companies, but most of them go bust. And when you look at the successful exits, what you see in this particular plot, the older you are, the more likely that you will actually hit the stock market or the sell the company successfully. This is so strong, actually, that if you are in the 50s, you are twice as likely to actually have a successful exit than if you are in your 30s.
Và bạn nghĩ, được rồi, khoa học là một lĩnh vực đặc biệt, vậy còn các ngành nghề khác cần đến sáng tạo thì sao? Vậy hãy xét đến một ví dụ điển hình khác: khởi nghiệp. Thung lũng Silicon, vùng đất của tuổi trẻ, đúng chứ? Quả nhiên khi bạn nhìn vào nó, bạn sẽ thấy các giải thưởng lớn nhất, TechCrunch và các giải khác, đều trao cho những người ở độ tuổi cuối 20 và đầu 30. Khi nhìn vào những người được các nhà đầu tư mạo hiểm rót vốn-- họ đều ở ngưỡng đầu 30. Hiển nhiên ta biết; tuổi trẻ tương đương với thành công là một đặc tính ở thung lũng Silicon. Không phải khi bạn nhìn vào dữ liệu, vì không chỉ là về việc tạo dựng một công ty. tạo dựng công ty giống như năng suất, bạn không ngừng cố gắng, khi bạn nhìn vào những người thực sự tạo nên một công ty thành công, một chiến lược rút lui thành công. Và gần đây, vài đồng nghiệp của chúng tôi phân tích chính câu hỏi đó. Và quả thực là đúng vậy, những người đang ở độ tuổi 20 và 30 gây dựng nên một số lượng lớn các công ty, nhưng phần lớn trong số đó phá sản. Và khi nhìn vào những chiến lược rút lui thành công, bạn thấy điểm rõ rệt này: bạn càng lớn tuổi, bạn càng dễ dàng thâm nhập được thị trường chứng khoán hoặc bán công ty một cách thành công. Điều này rất chắc chắn đến độ khi bạn 50 tuổi, khả năng tạo nên chiến lược rút lui thành công cao hơn gấp đôi khi bạn 30 tuổi.
(Applause)
(Vỗ tay)
So in the end, what is it that we see, actually? What we see is that creativity has no age. Productivity does, right? Which is telling me that at the end of the day, if you keep trying --
Cuối cùng, chúng ta nhận ra điều gì? Chúng ta biết được sự sáng tạo không hề có tuổi tác. Năng suất thì có, đúng chứ? Điều này nói với tôi rằng sau cùng, nếu bạn tiếp tục cố gắng,
(Laughter)
(Cười)
you could still succeed and succeed over and over. So my conclusion is very simple: I am off the stage, back in my lab.
bạn vẫn có thể đạt thành công nối tiếp thành công. Vì vậy kết luận của tôi rất đơn giản: Tôi sẽ rời sân khấu, quay về phòng thí nghiệm.
Thank you.
Cảm ơn mọi người.
(Applause)
(Vỗ tay)