It's story time. Settle back, and I'll begin. Once upon a time, a mother duck sat patiently on her nest of eggs, waiting for them to hatch. And then one day, she felt something move beneath her. Crack, crack! Filled with happiness, she watched as her eggs hatched one by one.
Đến giờ kể chuyện rồi. Thư giãn nào, rồi tôi sẽ bắt đầu. Ngày xửa ngày xưa, có một mẹ vịt kiên nhẫn ngồi ấp tổ trứng của mình, chờ cho những quả trứng nở ra. Và rồi một ngày, mẹ vịt cảm thấy có gì đó cử động ở dưới thân. Tách, tách! Mẹ vịt sung sướng nhìn những quả trứng lần lượt nở ra.
I don't know about you, but when I was little, story time was always one of my favorite parts of the day. And I loved reading to my two sons when they were small, too. It's that special time when a parent and child can be totally absorbed together in mystical kingdoms, fantastical beasties or scruffy little ducks that turn out to be swans. Well, that's how it is for some children, but for other children, there isn't a parent around to read to them.
Tôi không biết các bạn thế nào, nhưng khi tôi còn nhỏ, giờ kể chuyện luôn là khoảng thời gian yêu thích của tôi trong ngày. Và tôi cũng rất thích đọc chuyện cho hai con trai tôi khi chúng còn nhỏ. Đó là khoảng thời gian đặc biệt khi cha mẹ và con cái cùng bị cuốn vào một thế giới diệu kì với những con thú kì lạ, hay những con vịt con luộm thuộm biến thành thiên nga. Đối với một số trẻ em là như vậy, nhưng cũng có những đứa trẻ khác không có cha hay mẹ ở bên để kể chuyện cho chúng.
I'd like to tell you about Sophie. Sophie's five years old and lives with her parents. One day, there's a bang at the door. Sophie hears lots of shouting; her mum's crying. She sees the police dragging her father away. Sophie's afraid. She starts crying, too. Weeks go by. Sophie doesn't know what's happened to her dad. When she asks her mum, her mum gets upset. So she stops asking. Sophie waits. She really misses her dad. Every day, she hurries home from school, in case he's come back. On many nights, she cries herself to sleep.
Và tôi muốn cho các bạn nghe về cô bé Sophie. Sophie năm tuổi và sống cùng bố mẹ. Một ngày, có tiếng đập cửa. Sophie nghe thấy rất nhiều tiếng la hét, và tiếng mẹ cô bé khóc. Cô bé nhìn thấy cảnh sát kéo bố cô bé đi. Sophie cảm thấy sợ hãi và cũng bắt đầu khóc. Nhiều tuần trôi qua, Sophie vẫn không biết bố có chuyện gì. Và khi cô bé hỏi mẹ, mẹ cô bé lại buồn, nên cô bé không hỏi nữa. Sophie lại chờ đợi. Cô bé rất nhớ bố. Mỗi ngày đi học, cô bé sẽ vội về nhà để xem bố quay về hay chưa. Rất nhiều đêm, Sophie khóc đến ngủ thiếp đi.
Children at school start to tease her. They call her names. Somebody's mum has heard that Sophie's dad is in prison. Sophie pretends to be ill so she doesn't have to go to school. And her teacher can't understand why she's so far behind with her schoolwork. After what seems a long, long time to Sophie, a letter arrives. It's from her dad. The writing is very messy. The letter makes her mum cry, but she reads a little out to Sophie. He says that he's OK and that he's missing them. It's a short letter.
Những đứa trẻ ở trường bắt đầu trêu chọc cô bé. Chúng gọi cô bé thế này, thế kia. Mẹ của đứa trẻ nào đó đã biết bố của cô bé đang ở trong tù. Vậy nên Sophie giả vờ ốm để không phải đi học. Và giáo viên của cô bé không biết tại sao cô bé lại tụt lại phía sau trong việc học hành. Và sau một thời gian rất rất dài, họ nhận được một bức thư. Một bức thư từ bố cô bé. Chữ viết rất lộn xộn, bức thư khiến mẹ bé khóc, nhưng mẹ bé vẫn đọc một ít cho Sophie nghe. Bố cô bé nói rằng anh ta vẫn ổn và anh ta nhớ hai mẹ con họ. Đó là một bức thư ngắn.
Sophie says she'd like to go and see her dad, wherever he is. But her mum says it's too far away, and they can't afford the journey. Then one day the phone rings. "Sophie, come speak to daddy." Dad sounds different, far away. He says he can't talk for very long, and anyway, it's very noisy wherever he is. And Sophie doesn't know what to say to him.
Sophie nói muốn đi gặp bố, nơi nào cũng được. Nhưng mẹ bé nói bố đang ở một nơi rất xa, và họ không thể chi trả cho chuyến đi. Và một ngày, có người gọi đến. “Sophie, đến nói chuyện với bố này con.” Giọng bố cô bé nghe khác khác, rất xa xôi. Bố bé nói không thể nói chuyện được lâu, và dù sao nơi đó cũng rất ồn ào. Và Sophie không biết nói gì với bố cả.
Well, as stories go, that's not a very nice one. In the United Kingdom, 200,000 children experience the shame and isolation of a parent in prison. Two hundred thousand. That's more than the number of children each year who are affected by their parents divorcing. And it can affect the children of prisoners very deeply. There can be problems at school, and they're three times more likely to suffer from mental health issues. In so many ways, children are the unintended victims of their parents' crimes. In so many ways, children are the overlooked victims of their parents' crimes.
Diễn biến câu chuyện đó không hay cho lắm. Ở Anh, có đến 200,000 trẻ em cảm thấy xấu hổ và bị cô lập khi có bố mẹ bị bắt giam. 200,000 trẻ. Con số đó còn lớn hơn số trẻ em bị ảnh hưởng bởi chuyện li hôn của cha mẹ mỗi năm. Và chuyện này có ảnh hưởng sâu sắc tới con cái của tù nhân. Chúng có thể gặp một số vấn đề ở trường, và chúng có khả năng có vấn đề tâm lý cao hơn gấp ba lần. Bằng nhiều cách khác nhau, trẻ em là những nạn nhân vô tình mà phải chịu tội lỗi của bố mẹ chúng. Bằng nhiều cách khác nhau, trẻ em là những nạn nhân bị bỏ quên mà phải chịu tội lỗi của bố mẹ chúng.
Until last November, I was a serving prisoner, imprisoned for fraud. I was dishonest, and I paid the penalty. Before that, I'd been a practicing solicitor for 30 years. I'd had a happy and stable upbringing, a good education, a happy marriage, which, I'm pleased to say, continues. I have two adult sons. When they were growing up, I did my best to be around for them as much as I could. And I took a careful interest in what they did. I read to my boys every night, and ironically, our favorite story was "Burglar Bill."
Cho đến tháng 11 năm ngoái, tôi là một tù nhân đang thụ án vì tội lừa đảo. Tôi đã không trung thực và tôi đã phải trả giá. Trước đó, tôi làm cố vấn pháp luật trong 30 năm. Tôi lớn lên trong hạnh phúc và ổn định, với một giáo dục tốt, một hôn nhân hạnh phúc mà tôi mừng là vẫn đang tiếp tục. Tôi có hai con trai lớn. Và khi chúng lớn lên, tôi cũng cố hết sức để ở bên hai con nhiều nhất có thể. Tôi rất quan tâm những thứ con tôi làm. Tôi kể chuyện cho các con mỗi đêm, nhưng trớ trêu là, câu chuyện chúng tôi yêu thích lại là “Tên trộm Bill.”
(Laughter)
(cười)
But when I got to prison, it soon became apparent that my background was very different to that of most of the prisoners. Few of the men that I met had had a decent education. Indeed, many associated education with humiliation and failure. I can tell you firsthand that prison is dehumanizing. Prisoners harden up, they shut down, they close in ... just to survive. And this can be devastating for families. In fact, maintaining contact with your family from prison can be very difficult indeed. And if a child does get to see their parent in prison, they have to go through the same pat-down searches as the adults. They walk through the same detector frames, they're sniffed by the same sniffer dogs, and all because some children have been the unwitting carriers of drugs and mobile phones. And when they get through to see their parent, they may be tired from a long journey, shy, tongue-tied, even upset. And it isn't easy for the parents, who may not be getting along. For many reasons, not just these, over half of prisoners lose contact with their children and families.
Và khi tôi vào tù, tôi nhanh chóng nhận ra rằng bối cảnh của tôi rất khác so với hầu hết các tù nhân khác. Rất ít những tù nhân tôi gặp có một nền giáo dục tốt. Thực tế có rất nhiều người nghĩ giáo dục là một sự xỉ nhục, là một thất bại. Nhưng tôi có thể trực tiếp nói với bạn là, ngục tù khiến con người mất đi nhân tính Các tù nhân trở nên cứng rắn, và sống khép mình lại, chỉ để tồn tại. Nhưng điều này lại có thể tàn phá một gia đình. Thực tế, giữ liên lạc với người thân ở trong tù thực sự có thể rất khó khăn. Và nếu một đứa trẻ đi thăm cha/mẹ ở trong tù, chúng cũng sẽ bị vỗ nhẹ lên người như người lớn để kiểm tra an ninh. Chúng cũng phải đi qua khung máy dò, và để cho những con chó đánh hơi ngửi mùi vì một số trẻ em đã bị lợi dụng để tuồn chất gây nghiện và điện thoại vào trong tù. Và khi chúng có thể gặp được cha/mẹ, chúng có thể đã mệt lử sau một hành trình dài rồi. Chúng có thể thấy xấu hổ, không biết nói gì hay thậm chí còn thấy khó chịu. Những tù nhân này chẳng thấy dễ dàng gì nếu họ không hòa thuận với con cái. Vì rất nhiều lí do, không chỉ những lí do này, hơn nửa số tù nhân mất liên lạc với con cái và gia đình.
How can we help prisoners to stay in contact with their families? When I was a prisoner at Channings Wood Prison, I began working for a charity called Storybook Dads. Storybook Dads began in 2003, when Sharon Berry, a civilian worker in a prison, realized just how much many prisoners wanted to stay in contact with their children. And so, armed with a few storybooks, she began to help prisoners to read and record stories to send home to their children. It wasn't a new idea. Few ideas like this are new. They're great ideas. But it was an instant success.
Và chúng ta có thể giúp họ giữ liên lạc với gia đình như thế nào? Khi tôi thụ án ở trại giam Channings Wood, tôi bắt đầu làm cho một tổ chức tình nguyện gọi là “Bố kể con nghe”. Tổ chức hoạt động từ năm 2003, khi Sharon Berry, một công dân làm việc ở trong tù nhận ra rằng có rất nhiều tù nhân mong muốn giữ được liên lạc với con cái. Vì vậy, với vài cuốn truyện, cô bắt đầu giúp tù nhân đọc truyện và ghi âm lại để gửi về nhà cho con họ. Đây không phải là một ý tưởng mới mẻ, không phải ý tưởng nào thế này cũng mới mẻ Chúng là những ý tưởng tuyệt vời. Nhưng nó thành công ngay lập tức.
You may wonder: How does the recording of the stories work in prison? Is it difficult for prisoners? Can it be challenging? Well, the process of choosing, reading and recording a story can be very challenging for prisoners. Prison is tough, and prisoners can't afford to show any signs of weakness or vulnerability. But this, this recording process, this can be uncomfortable, upsetting, sometimes all just a bit too much. And prisoners often cry. They cry because they regret missing out on their children's lives. They cry because they're ashamed that they've let their families down. They cry because they don't know how to go about reading to their children. But because when they come to us we offer a private space, one-to-one, prisoners don't need to be tough anymore, and they can use their vulnerability as a strength when contacting with their children.
Bạn có thể thắc mắc: Các tù nhân ghi âm các câu chuyện ở trong tù như thế nào? Chuyện này có khó không? Liệu có thách thức gì không? Quá trình chọn lọc, đọc truyện và ghi âm có thể rất khó khăn đối với các tù nhân. Ngục giam rất khắc nghiệt, các tù nhân không được để lộ điểm yếu hay nhược điểm của mình. Nhưng quá trình ghi âm này có thể có chút khó chịu, buồn lòng, hay đôi khi có chút quá mức chịu đựng. Và các tù nhân thường sẽ khóc, Họ khóc trong hối hận vì đã bỏ lỡ cuộc sống của con cái họ. Họ khóc trong xấu hổ vì đã khiến gia đình thất vọng. Họ khóc vì họ không biết phải kể chuyện cho các con như thế nào. Nhưng vì khi họ đến với chúng tôi, họ có một không gian riêng tư, chỉ có hai người, họ không cần phải mạnh mẽ nữa, họ có thể lợi dụng điểm yếu của họ như chính một lợi thế để kết nối với con cái mình.
I remember one prisoner who came to record. He was a big, hard man with a reputation for being tough. He came along as implacable as ever. But when the door of the recording room closed behind him, that facade began to crumble. From his pocket, he took a screwed-up piece of paper and quietly began to read the words which he'd written as a message for his two little ones. His hands were shaking. And then, in a surprisingly quiet voice, he began to sing their favorite lullaby. You see, there wasn't much that he could do from behind bars to show his children that he missed and loved them. But he could do this.
Tôi nhớ có một tù nhân đến ghi âm kể chuyện Cậu ấy là một người vạm vỡ, cứng rắn có tiếng. Cậu ấy đến với phong thái cứng rắn như bao giờ hết. Và khi cửa phòng thu âm đóng lại đằng sau, vẻ bề ngoài cứng rắn đó liền đổ vỡ. Từ trong túi, cậu ấy lấy ra một mẩu giấy nhàu nát và yên lặng bắt đầu đọc những câu chữ mà cậu ấy đã viết để gửi gắm tới hai con nhỏ. Tay cậu ấy run lên, và rồi, với một chất giọng nhẹ nhàng đến bất ngờ cậu ấy bắt đầu hát ru bài hát mà chúng thích. Các bạn thấy đấy, cậu ấy không thể làm gì nhiều để thể hiện tình yêu và sự thương nhớ cho hai con khi ở đằng sau song sắt. Nhưng cậu ấy có thể làm điều này.
Once the recording is made, it's sent to the Storybook Dads production unit at Channings Wood Prison in Devon. And that's where I worked. I was trained, along with other prisoners, to edit and produce recordings sent in from prisons all over the United Kingdom. Using audio and video software, the recordings have the mistakes taken out and sound effects and music added in. And the experience and skill which the prison editors gain helps them in their future employment.
Sau khi ghi âm xong, phần ghi âm sẽ được gửi đến bộ phận sản xuất của “Bố kể con nghe” ở trại giam Channings Wood ở Devon. Và tôi đã làm việc ở đó. Tôi và các tù nhân khác được đào tạo chỉnh sửa và sản xuất phần ghi âm gửi từ các trại giam trên khắp nước Anh. Chúng tôi sử dụng các phần mềm audio và video để cắt bỏ các lỗi khi ghi âm và chèn các hiệu ứng âm thanh và âm nhạc. Và những kinh nghiệm và kĩ năng mà tù nhân học được từ việc chỉnh sửa có thể giúp họ tìm công việc trong tương lai.
Once the recording is finalized, it's transferred to a CD or a DVD and sent out to the families so that the children can watch them whenever they feel the need. And they listen to these recordings and watch them a lot -- at bedtime, in the car ... Some even take them to school to show their friends. These recordings, they show the children that they're loved and missed. And they show the prisoner that they can do something for their child, as a parent.
Khi đoạn ghi âm được hoàn thành, nó sẽ được chuyển thành đĩa CD hay DVD và gửi về cho gia đình để con cái họ có thể nhìn thấy họ khi cần. Và những đứa trẻ nghe và xem đoạn ghi rất nhiều, vào giờ đi ngủ, hay lúc ở trong ô tô ... Có một số bé còn đem đến trường cho các bạn xem. Những đoạn ghi này cho những đứa trẻ biết được bố mẹ chúng cũng yêu thương và nhớ đến chúng, và làm cho những tù nhân tin rằng họ có thể làm gì đó cho con cái họ.
Do you remember Sophie? Well, one day, just before Christmas, a parcel arrived, and this is what was in it. Let's listen to a little of it together.
Các bạn còn nhớ Sophie chứ? Vào một ngày nọ, ngay trước Giáng sinh, có một bưu kiện được gửi tới, và trong bưu kiện là thứ này. Hãy cùng nghe một chút nhé.
(Video) Santa: On, Comet! On, Cupid! On, Donner and Blitzen!
(Video): Đi nào Comet, đi nào Cupid, Donner và Blitzen cùng đi nào!
Charlie: That's his reindeer, isn't it?
Charlie: Có phải tuần lộc của ông ấy đó không?
Santa: It is his reindeer, yeah. Up, up, higher and higher they flew, across land, across oceans they sped. Through the magical northern lights they passed -- I'd love to see the northern lights, wouldn't you?
Đúng rồi đấy. Bay cao nào, bay cao nào, bay qua các lục địa, bay qua các đại dương. Họ đi qua cực quang kì diệu, Ông muốn xem cực quang, cháu có muốn không?
Charlie: I figure they'd probably look a bit like that snowman's belly.
Charlie: Cháu nghĩ chúng có chút giống bụng người tuyết.
Santa: They probably would, yeah. That's a cool snowman, isn't it?
Santa: Ừ, cũng có thể. Đó có phải người tuyết không?
Charlie: It's very cool indeed, I love it.
Charlie: Nó ngầu thật, cháu thích nó.
Santa: They visited all the children in the world and left presents for each and every one. In the blink of an eye, they were back in Frogsbottom Field.
Santa: Họ đến thăm mọi trẻ em trên thế giới và tặng quà cho mỗi em bé. Trong nháy mắt, họ đã trở lại cánh đồng Frogsbottom.
(Charlie Laughs)
(Charlie cười)
Santa: You think that's well funny?
Santa: Cháu nghĩ buồn cười lắm sao?
Charlie: I want to live in Frogsbottom Field!
Charlie: Cháu muốn sống ở cánh đồng Frogsbottom!
Santa: Where do you live, in Frogsbottom Tree?
Santa: Cháu muốn sống ở đâu? Trên cây ở Frogsbottom ư?
Charlie: I don't, I live in this tree. I've made it all Christmasy-look.
Charlie: Không, cháu sống trên cây này. Cháu trang trí nó cho có không khí Giáng sinh.
Santa: It's nice, that. You've done a good job, good job.
Santa: Đẹp lắm! Cháu trang trí đẹp lắm.
Charlie: Thank you very much!
Charlie: Cảm ơn ông!
(Laughter)
(Tiếng cười)
Alan Crickmore: Sophie and her mum listened to that three times, and they haven't laughed so much in a long time. They can see that he's all right, they can see that he loves them, and the next time he rings, Sophie's got plenty to talk about: "What does Charlie the Chimp eat? Will daddy do another story very soon?"
AC: Sophie và mẹ cô bé đã nghe câu chuyện ba lần, và đã lâu rồi họ chưa cười nhiều như vậy. Họ có thể thấy rằng bố cô bé vẫn đang ổn, và anh ta vẫn yêu hai mẹ con họ, và ở lần gọi điện tiếp theo, Sophie có rất nhiều thứ muốn nói. “Tinh tinh Charlie có ăn gì không bố? Bố sẽ kể một câu chuyện khác cho con sớm thôi đúng không?”
Since it began in 2003, Storybook Dads has grown and grown. It now operates as Storybook Dads and Storybook Mums in more than 100 prisons in the United Kingdom. Ninety-eight percent of the prisoners who take part say that it's improved their relationship with their child. And since 2003, over 60,000 DVDs and CDs have been sent out to the children of prisoners. For Sophie's family and for thousands of families like them, Storybook Dads has been a lifeline. Some prisoners say that it's the first time that they've begun to build a relationship with their child. And some poor readers have been so inspired by what they've been able to achieve that they've gone to education classes to improve their own reading skills.
Và lúc bắt đầu hoạt động năm 2003, tổ chức đã luôn phát triển và hiện tại đang hoạt động với “Bố kể con nghe” và “Mẹ kể con nghe” ở hơn 100 trại giam ở Anh. 98% tù nhân tham gia vào hoạt động này chia sẻ rằng mối quan hệ với các con họ đã có tiến triển. Từ 2003, hơn 60.000 đĩa DVDs và CDs đã được gửi cho con cái của các tù nhân. Đối với gia đình của Sophie và hàng nghìn gia đình tương tự khác, “Bố kể con nghe” chính là một dây cứu sinh. Một số tù nhân nói rằng đây là lần đầu tiên họ bắt đầu xây dựng mối quan hệ với con cái. Và một số người không biết đọc truyện lắm cũng được truyền cảm hứng bởi những thứ họ có thể đạt được và đến học lớp giáo dục để cải thiện kĩ năng đọc.
Let's go back to the story of "The Ugly Duckling." But this time, I'd like to play you a recording made by a prisoner, because it encapsulates the power of what we do. The prisoner was an Irish Traveller who couldn't read. And he wanted to send a story home to his daughter for her birthday. With the help of a mentor and some clever editing, something magical happened. This is an extract from the raw recording, where the prisoner is reading the story by repeating it, phrase at a time.
Hãy quay trở lại với câu chuyện “Vịt con xấu xí“. Nhưng lần này, tôi muốn bật một đoạn ghi âm bởi một tù nhân, vì nó gói gọn sức mạnh của những việc chúng tôi làm. Người tù nhân này là một khách du lịch không biết đọc chữ đến từ Ireland. Và cậu ấy muốn gửi một câu chuyện về nhà để mừng sinh nhật con gái. Với sự trợ giúp của một người hướng dẫn và việc chỉnh sửa khéo léo, một điều kì diệu đã xảy ra. Đây là một đoạn trích từ bản ghi âm gốc, khi mà người tù nhân này đọc câu chuyện bằng cách lặp lại từng cụm từ.
(Audio) Mentor: He had nowhere to hide.
Hướng dẫn viên: Vịt con không biết trốn ở đâu.
Owen: He had nowhere to hide.
Owen: Vịt con không biết trốn ở đâu.
Mentor: So one day, he ran away.
HDV: Nên ngày nọ, vịt con bỏ đi.
Owen: Then one day, he ran away.
Owen: Nên ngày nọ, vịt con bỏ đi.
Mentor: He ran until he came to the great marsh.
HDV: Cho đến khi nó chạy đến một đầm lầy lớn.
Owen: He run until he come to the great marsh.
Owen: Cho đến khi nó chạy đến một đầm lầy lớn.
Mentor: Where the wild ducks lived.
HDV: Nơi đàn vịt trời sinh sống.
Owen: Where the wild ducks lived.
Owen: Nơi đàn vịt trời sinh sống.
AC: And this is a recording -- an excerpt of the recording with the mentor's voice taken out and sound effects and music added in.
AC: Và đây là một đoạn ghi âm và đoạn trích ghi âm khi giọng của hướng dẫn viên bị cắt ra và chèn thêm hiệu ứng âm thanh và âm nhạc.
(Audio) Owen: He had nowhere to hide. Then one day, he run away. He run until he come to the great marsh where the wild ducks lived, and he laid in the rushes for two weeks.
Owen: Vịt con không biết trốn ở đâu. Rồi ngày nọ, vịt con bỏ đi. Nó chạy đến một đầm lầy lớn nơi đàn vịt trời sinh sống và nằm trong đám cây cói trong hai tuần.
(Music) (Ducks quack)
(Quạc quạc quạc)
Some wild ducks and geese come to look at him. "You're very ugly," they said, and they laughed at him.
Vài con vịt trời và vài con ngỗng đến nhìn vịt con, rồi cười nói vịt con là “nhóc con xấu xí“.
(Ducks quack)
(Quạc quạc quạc)
The ugly duckling ran away from the great marsh.
Vịt con xấu xí chạy khỏi đám cây cói.
(Duck quacks)
(Quạc quạc quạc)
AC: And this is how he finished the story:
AC: Và đây là cách cậu ấy kết thúc câu chuyện.
(Audio) Owen: He wasn't an ugly duckling at all. During the winter, he had grown into a beautiful white swan. The other swans looked at him and thought how beautiful he was. "Come with us," they said. And he did.
Owen: Hóa ra nó không phải là một con vịt xấu xí. Vào mùa đông, vịt con đã biến thành một con thiên nga trắng xinh đẹp. Những con thiên nga khác nhìn vào nó và nghĩ nó rất xinh đẹp. “Đi với bọn tôi”, chúng nói. Và “vịt con” đi theo chúng.
(Bird sounds)
(Tiếng chim)
Well, Tiara, I hope you have enjoyed this story as much as I enjoyed reading this story to you. I cannot wait to be with you again and hold you in my arms. All my love, your daddy, Owen. Lots of love, I miss you with all my heart. Goodbye for now, my love. Bye bye.
Tiara, bố mong là con sẽ thích câu chuyện nhiều như cách bố thích kể câu chuyện này cho con. Bố rất muốn ở cùng con và bế con vào lòng. Bố Owen yêu con với tất cả tình yêu của bố. Rất nhiều tình yêu, bố nhớ con với cả trái tim này. Bây giờ thì tạm biệt nhé, con gái yêu.
(Music)
(Âm nhạc)
(Music ends)
(Âm nhạc kết thúc)
AC: When he listened to that recording in his cell before it was sent out to his daughter, he cried. And that's a pretty common reaction from prisoners, as they realize for the first time they've been able to do something for their child which they never thought they could. They've connected in the most fundamental way, through the medium of storytelling.
AC: Khi cậu ấy nghe bản ghi âm ở trong phòng giam, trước khi nó được gửi đi cho con gái cậu, cậu ấy đã khóc. Đó là một phản ứng khá giống nhau của các tù nhân, khi họ lần đầu nhận ra họ có thể làm gì đó cho con mà họ nghĩ họ không bao giờ có thể. Họ gắn kết với con cái bằng một cách cơ bản nhất qua việc kể chuyện.
And as for Sophie, she wants "The Gruffalo" next time.
Còn Sophie, lần sau cô bé muốn nghe câu chuyện ‘con quái vật Gruffalo’.
(Laughter)
(Tiếng cười)
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)