A few months ago, a 40 year-old woman came to an emergency room in a hospital close to where I live, and she was brought in confused. Her blood pressure was an alarming 230 over 170. Within a few minutes, she went into cardiac collapse. She was resuscitated, stabilized, whisked over to a CAT scan suite right next to the emergency room, because they were concerned about blood clots in the lung. And the CAT scan revealed no blood clots in the lung, but it showed bilateral, visible, palpable breast masses, breast tumors, that had metastasized widely all over the body. And the real tragedy was, if you look through her records, she had been seen in four or five other health care institutions in the preceding two years. Four or five opportunities to see the breast masses, touch the breast mass, intervene at a much earlier stage than when we saw her.
Vài tháng trước, một phụ nữ 40 tuổi tới phòng cấp cứu của một bệnh viện gần chỗ tôi ở. Chị nhập viện trong trạng thái không còn tỉnh táo. Huyết áp chị cao đáng báo động - ở mức 230/170. Trong vài phút, tim chị ngừng đập. Chị được hồi sức cấp cứu, đưa vào trạng thái ổn định, nhanh chóng chuyển qua phòng chụp X-quang cắt lớp ngay bên cạnh phòng cấp cứu, vì các bác sĩ lo rằng có máu đông trong phổi. Và ảnh chụp cắt lớp cho thấy không hề có máu tụ trong phổi, nhưng nó lại cho thấy hai khối bướu trong ngực, có thể nhìn thấy và sờ thấy được - khối u vú đã di căn ra khắp toàn bộ cơ thể. Và bi kịch thật sự ở chỗ, nếu bạn xem xét hồ sơ bệnh án của chị bệnh nhân, chị đã đi khám ở bốn hoặc năm trung tâm y tế khác nhau trong hai năm trở lại đây. Bốn hoặc năm cơ hội để thấy khối u, chạm vào khối u, và can thiệp y tế ở giai đoạn sớm hơn nhiều so với khi chúng tôi gặp chị.
Ladies and gentlemen, that is not an unusual story. Unfortunately, it happens all the time. I joke, but I only half joke, that if you come to one of our hospitals missing a limb, no one will believe you till they get a CAT scan, MRI or orthopedic consult. I am not a Luddite. I teach at Stanford. I'm a physician practicing with cutting-edge technology. But I'd like to make the case to you in the next 17 minutes that when we shortcut the physical exam, when we lean towards ordering tests instead of talking to and examining the patient, we not only overlook simple diagnoses that can be diagnosed at a treatable, early stage, but we're losing much more than that. We're losing a ritual. We're losing a ritual that I believe is transformative, transcendent, and is at the heart of the patient-physician relationship. This may actually be heresy to say this at TED, but I'd like to introduce you to the most important innovation, I think, in medicine to come in the next 10 years, and that is the power of the human hand -- to touch, to comfort, to diagnose and to bring about treatment.
Thưa quí vị, đây không phải câu chuyện bất thường gì. Không may mắn là nó xảy ra mọi lúc mọi nơi. Tôi hay đùa là, mà thực ra là nửa đùa nửa thật, là nếu bạn nhập viện với một chiếc cẳng đứt lìa, chả ai sẽ tin bạn cả cho đến khi họ nhận được ảnh chụp cắt lớp, cộng hưởng từ, hay hội ý với khoa chỉnh hình. Tôi không phải là kẻ sợ công nghệ mới. Tôi dạy ở Đại học Stanford. Tôi là bác sĩ, chữa bệnh bằng những công nghệ tối tân. Nhưng tôi muốn chứng minh cho các bạn thấy trong 17 phút tới là khi ta lược bỏ việc trực tiếp kiểm tra cơ thể, khi y sĩ chuộng việc xét nghiệm hơn là nói chuyện và trực tiếp kiểm tra bệnh nhân, ta không chỉ bỏ sót những căn bệnh đơn giản mà đáng lẽ có thể được chẩn đoán từ giai đoạn đầu, dễ điều trị, mà ta còn mất nhiều hơn thế. Ta đang mất đi một nghi thức đặc biệt. Ta đang mất một nghi thức mà tôi tin là có sức mạnh thay đổi siêu việt, nghi thức cốt lõi trong mối quan hệ y sĩ - bệnh nhân. Có lẽ thuyết trình điều này ở TED nghe như dị giáo vậy, nhưng tôi muốn giới thiệu cho các bạn đổi mới quan trọng nhất, theo ý kiến của tôi, với nền y học trong 10 năm tới, và đó là sức mạnh của bàn tay con người -- để ấn chạm, để xoa dịu, để chẩn đoán, và để giúp điều trị.
I'd like to introduce you first to this person whose image you may or may not recognize. This is Sir Arthur Conan Doyle. Since we're in Edinburgh, I'm a big fan of Conan Doyle. You might not know that Conan Doyle went to medical school here in Edinburgh, and his character, Sherlock Holmes, was inspired by Sir Joseph Bell. Joseph Bell was an extraordinary teacher by all accounts. And Conan Doyle, writing about Bell, described the following exchange between Bell and his students.
Tôi muốn giới thiệu cho các bạn nhân vật này hình ảnh của ông có bạn sẽ nhận ra, có bạn không. Đây là Ngài Arthur Conan Doyle. Vì chúng tôi ở Edinburgh, tôi vô cùng hâm mộ Conan Doyle. Có lẽ bạn không biết là Conan Doyle theo học trường y ở Edinburgh đây, và nhân vật của ông, Sherlock Holmes, được lấy cảm hứng từ Ngài Joseph Bell. Joseph Bell là một người thầy phi thường, ai cũng nói vậy. Và Conan Doyle, khi viết về Bell, mô tả cuộc hội thoại sau giữa Bell và các học sinh của ông.
So picture Bell sitting in the outpatient department, students all around him, patients signing up in the emergency room and being registered and being brought in. And a woman comes in with a child, and Conan Doyle describes the following exchange. The woman says, "Good Morning." Bell says, "What sort of crossing did you have on the ferry from Burntisland?" She says, "It was good." And he says, "What did you do with the other child?" She says, "I left him with my sister at Leith." And he says, "And did you take the shortcut down Inverleith Row to get here to the infirmary?" She says, "I did." And he says, "Would you still be working at the linoleum factory?" And she says, "I am."
Hãy tưởng tượng Bell đang ngồi trong khoa ngoại trú, với sinh viên đứng quanh, bệnh nhân bắt đầu đăng kí trong phòng cấp cứu và được ghi tên và đưa vào phòng. Có một phụ nữ đi vào cùng đứa con, và Conan Doyle mô tả lại đoạn hội thoại sau. Chị kia nói, "Chào buổi sáng." Bell nói, "Chị đi phà qua sông từ Burntisland có suôn sẻ không?" Chị đáp, "Chuyến đi tốt lắm." Rồi ông nói, "Thế cháu bé còn lại chị gửi ở đâu?" Chị đáp, "Tôi gửi cháu chỗ nhà chị tôi ở Leith." Và ông nói, "Chị đi đường tắt qua Inverleith Row để đến bệnh xá này đúng không?" Chị kia đáp, "Đúng thế." Và rồi ông nói, "Sau đây chị sẽ tiếp tục làm ở nhà máy thảm lót sàn chứ?" Chị trả lời, "Vâng."
And Bell then goes on to explain to the students. He says, "You see, when she said, 'Good morning,' I picked up her Fife accent. And the nearest ferry crossing from Fife is from Burntisland. And so she must have taken the ferry over. You notice that the coat she's carrying is too small for the child who is with her, and therefore, she started out the journey with two children, but dropped one off along the way. You notice the clay on the soles of her feet. Such red clay is not found within a hundred miles of Edinburgh, except in the botanical gardens. And therefore, she took a short cut down Inverleith Row to arrive here. And finally, she has a dermatitis on the fingers of her right hand, a dermatitis that is unique to the linoleum factory workers in Burntisland." And when Bell actually strips the patient, begins to examine the patient, you can only imagine how much more he would discern. And as a teacher of medicine, as a student myself, I was so inspired by that story.
Rồi sau đó Bell giải thích cho học sinh của mình. Ông nói, "Các em thấy đó, khi chị kia nói, 'Chào buổi sáng,' Tôi nhận ra chị ấy nói giọng vùng Fife. Và chuyến phà gần nhất đến từ vùng Fife xuất phát từ Burntisland. Thế nên nhất định chị này phải đi phà sang. Các em có thấy là cái áo khoác chị ta cầm theo quá nhỏ cho cháu bé đi cùng không, thế nên, lúc khởi hành nhất định chị đó dắt theo hai đứa con, nhưng gửi lại một đứa ở đâu đó giữa đường. Các em thấy vết đất sét trên gót chân chị kia đó. Đất sét đỏ như thế, trong cả trăm dặm quanh Edinburgh không đâu có, ngoại trừ trong vườn bách thảo. Thế nghĩa là, chị ấy đi lối tắt qua Inverleith Row để tới đây. Và cuối cùng, chị ấy bị viêm da ở trên ngón tay phải chỗ viêm da mà duy chỉ thợ ở nhà máy thảm lót sàn ở Burntisland có mà thôi." Và tới khi Bell thật sự yêu cầu bệnh nhân cởi áo bắt đầu kiểm tra kĩ, các bạn có thể tưởng tượng ông còn khám phá ra bao nhiêu thứ nữa. Là một thầy giáo y khoa, và cũng là một học sinh, tôi được câu chuyện đó truyền rất nhiều cảm hứng.
But you might not realize that our ability to look into the body in this simple way, using our senses, is quite recent. The picture I'm showing you is of Leopold Auenbrugger who, in the late 1700s, discovered percussion. And the story is that Leopold Auenbrugger was the son of an innkeeper. And his father used to go down into the basement to tap on the sides of casks of wine to determine how much wine was left and whether to reorder. And so when Auenbrugger became a physician, he began to do the same thing. He began to tap on the chests of his patients, on their abdomens. And basically everything we know about percussion, which you can think of as an ultrasound of its day -- organ enlargement, fluid around the heart, fluid in the lungs, abdominal changes -- all of this he described in this wonderful manuscript "Inventum Novum," "New Invention," which would have disappeared into obscurity, except for the fact that this physician, Corvisart, a famous French physician -- famous only because he was physician to this gentleman -- Corvisart repopularized and reintroduced the work.
Nhưng có lẽ các bạn không nhận ra được rằng khả năng quan sát cơ thể, theo cách đơn giản này, chỉ dùng các giác quan, khá là mới mẻ. Bức tranh tôi chiếu cho các bạn đây là Leopold Auenbrugger người mà, vào cuối thế kỉ 18, khám phá ra việc gõ để chẩn bệnh. Chuyện kể rằng Leopold Auenbrugger là con trai một ông chủ quán rượu. Ba của ông từng đi xuống tầng hầm để gõ vào thành các thùng rượu để xem rượu còn bao nhiêu và có nên đặt tiếp hay không. Và thế là khi Auenbrugger trở thành bác sĩ, Ông cũng làm như vậy. Ông gõ nhẹ vào ngực của bệnh nhân, vào khoang bụng. Và, về cơ bản, tất cả những gì ta biết về gõ chẩn bệnh, một phương pháp mà đối với người thời đó cũng như là sóng siêu âm vậy -- các cơ quan phù nề, dịch quanh tim, dịch trong phổi, thay đổi trong ổ bụng -- tất cả những điều này ông mô tả lại trong một bản thảo tuyệt vời "Inventum Novem," "Phát minh mới," mà đáng lẽ đã chìm vào quên lãng, nếu không nhờ vị bác sĩ này, Corvisart, một bác sĩ nổi tiếng người Pháp -- nổi tiếng chỉ vì ông ta là bác sĩ riêng của một nhà quí tộc -- Corvisart giới thiệu lại và khiến công trình kia lại được ưa chuộng.
And it was followed a year or two later by Laennec discovering the stethoscope. Laennec, it is said, was walking in the streets of Paris and saw two children playing with a stick. One was scratching at the end of the stick, another child listened at the other end. And Laennec thought this would be a wonderful way to listen to the chest or listen to the abdomen using what he called "the cylinder." Later he renamed it the stethoscope. And that is how stethoscope and auscultation was born. So within a few years, in the late 1800s, early 1900s, all of a sudden, the barber surgeon had given way to the physician who was trying to make a diagnosis.
Và một hay hai năm sau đó Laennac khám phá ra ống nghe khám bệnh. Laennec, người ta kể, đang đi bộ trên đường phố Paris, và thấy hai đứa trẻ đang chơi một cái gậy. Một em cào một đầu của cái gậy, và em kia lắng nghe ở đầu bên kia. Và Laennec nghĩ đây sẽ là một cách tuyệt vời để nghe tiếng động trong ngực hay trong bụng dùng cái mà ông gọi là "cái ống trụ." Sau đó ông đặt tên nó là cái ống nghe. Và chiếc ống nghe và phương pháp thính chẩn được khai sinh. Thế là trong một vài năm, cuối thể kỉ 19, đầu thế kỉ 20, đột nhiên thợ cạo kiêm phẫu thuật gia nhường chỗ cho người bác sĩ chẩn bệnh.
If you'll recall, prior to that time, no matter what ailed you, you went to see the barber surgeon who wound up cupping you, bleeding you, purging you. And, oh yes, if you wanted, he would give you a haircut -- short on the sides, long in the back -- and pull your tooth while he was at it. He made no attempt at diagnosis. In fact, some of you might well know that the barber pole, the red and white stripes, represents the blood bandages of the barber surgeon, and the receptacles on either end represent the pots in which the blood was collected. But the arrival of auscultation and percussion represented a sea change, a moment when physicians were beginning to look inside the body.
Nếu bạn nhớ lại, thời trước đó, dù bạn đau ốm thế nào, bạn sẽ đến gặp thợ cạo kiêm phẫu thuật gia, người sẽ ráng sức hút chân không bạn, làm bạn chảy máu, thanh lọc cơ thể bạn, Và, ồ vâng, nếu bạn muốn, gã ta sẽ cắt tóc cho bạn nữa -- hai bên ngắn, đằng sau dài -- và nhổ răng bạn trong quá trình đó. Gã ta hoàn toàn không bỏ tí công nào để chẩn bệnh. Trên thực tế, có thể vài người trong số bạn sẽ biết, cái cột trước các hàng thợ cạo, có xoắn đỏ trắng, tượng trưng cho vết băng nhuốm máu của thợ cạo kiêm phẫu thuật gia, và hai đế ở hai đầu tượng trưng cho các bình hứng máu. Nhưng sự ra đời của phương pháp thính chẩn và gõ chẩn bệnh chính là một thay đổi lớn lao trời biển, thời khắc y sĩ bắt đầu xem xét bên trong cơ thể.
And this particular painting, I think, represents the pinnacle, the peak, of that clinical era. This is a very famous painting: "The Doctor" by Luke Fildes. Luke Fildes was commissioned to paint this by Tate, who then established the Tate Gallery. And Tate asked Fildes to paint a painting of social importance. And it's interesting that Fildes picked this topic. Fildes' oldest son, Philip, died at the age of nine on Christmas Eve after a brief illness. And Fildes was so taken by the physician who held vigil at the bedside for two, three nights, that he decided that he would try and depict the physician in our time -- almost a tribute to this physician. And hence the painting "The Doctor," a very famous painting. It's been on calendars, postage stamps in many different countries. I've often wondered, what would Fildes have done had he been asked to paint this painting in the modern era, in the year 2011? Would he have substituted a computer screen for where he had the patient?
Và bức tranh này, tôi nghĩ, thể hiện đỉnh cao, đỉnh điểm, của kỉ y khoa đó. Đây là một bức họa rất nổi tiếng: "Người Bác sĩ" của Luke Fildes. Luke Fildes được yêu cầu vẽ bức tranh này bởi Tate, người sắp sáng lập Phòng tranh Tate. Tate yêu cầu Fildes vẽ một bức họa có tầm quan trọng xã hội. Và thật thú vị là Fildes chọn đề tài này. Con trai cả của Fildes, Philip, qua đời lúc chín tuổi vào đêm Giáng Sinh, sau cơn bạo bệnh ngắn ngủi. Và Fildes vô cùng cảm động trước người y sĩ túc trực bên giường bệnh hai, ba đêm liền, đến mức ông quyết định thử mô tả người y sĩ trong thời đại này -- như để tỏ lòng tôn kính với vị y sĩ ngày xưa. Thế là bức tranh "Người Bác sĩ," một họa phẩm nổi tiếng ra đời. Nó đã được in trên lịch, tem thư ở nhiều nước khác nhau. Tôi thường băn khoăn không biết Fildes sẽ làm gì nếu ông được đề nghị vẽ bức tranh này trong thế kỉ hiện đại, vào năm 2011? Liệu ông có thế một màn hình máy tính vào chỗ người bệnh không?
I've gotten into some trouble in Silicon Valley for saying that the patient in the bed has almost become an icon for the real patient who's in the computer. I've actually coined a term for that entity in the computer. I call it the iPatient. The iPatient is getting wonderful care all across America. The real patient often wonders, where is everyone? When are they going to come by and explain things to me? Who's in charge? There's a real disjunction between the patient's perception and our own perceptions as physicians of the best medical care.
Tôi từng gặp rắc rối ở Thung lũng Silicon vì dám nói rằng bệnh nhân trong giường gần như chỉ là một biểu tượng cho bệnh nhân thật trong máy tính kia. Tôi đã đặt ra một từ mới cho cái thực thể trong máy tính kia. Tôi gọi nó là iPatient (bệnh nhân ảo). iPatient được chăm sóc một cách hoàn hảo trên khắp nước Mỹ. Còn bệnh nhân thật thì thắc mắc, mọi người đâu hết cả rồi? Bao giờ mới có người đến giải thích mọi thứ cho tôi? Ai là quản lí? Thật sự có sự khác nhau trên quan điểm của bệnh nhân và quan điểm của giới y sĩ chúng tôi, về thế nào là chăm sóc y tế tốt nhất.
I want to show you a picture of what rounds looked like when I was in training. The focus was around the patient. We went from bed to bed. The attending physician was in charge. Too often these days, rounds look very much like this, where the discussion is taking place in a room far away from the patient. The discussion is all about images on the computer, data. And the one critical piece missing is that of the patient.
Tôi muốn cho các bạn thấy một bức ảnh cho thấy những vòng đi khám bệnh trông như thế nào khi tôi còn đang thực tập. Tâm điểm chú ý là bệnh nhân. Chúng tôi đi từ giường bệnh này sang giường bệnh kia. Bác sĩ trực tiếp điều trị điều hành thảo luận. Thường thì ngày nay, việc khám bệnh trông như thế này: nơi cuộc thảo luận diễn ra là một căn phòng xa chỗ bệnh nhân. Toàn bộ thảo luận xoay quanh hình ảnh trên máy tính, dữ liệu. Và mảnh ghép quan trọng bị thiếu là người bệnh nhân.
Now I've been influenced in this thinking by two anecdotes that I want to share with you. One had to do with a friend of mine who had a breast cancer, had a small breast cancer detected -- had her lumpectomy in the town in which I lived. This is when I was in Texas. And she then spent a lot of time researching to find the best cancer center in the world to get her subsequent care. And she found the place and decided to go there, went there. Which is why I was surprised a few months later to see her back in our own town, getting her subsequent care with her private oncologist.
Giờ đây, cách nghĩ của tôi được tác động bởi hai câu chuyện cá nhân tôi muốn chia sẻ với các bạn. Một chuyện là về một người bạn của tôi bị ung thư vú, cô ấy có một khối ung thư vú đã được phát hiện -- được cắt bỏ khối u tại thị trấn chỗ tôi ở. Đây là hồi tôi còn ở Texas. Và rồi cô ấy dành rất nhiều thời gian tìm hiểu để tìm trung tâm điều trị ung thư tốt nhất trên thế giới để được chăm sóc sau đó. Và cô ấy tìm thấy một chỗ và quyết định tới đó, và đã đến đó. Đấy là lí do tại sao tôi vô cùng ngạc nhiên khi vài tháng sau lại thấy cô ấy trong thị trấn của tôi, để được bác sĩ ung thư riêng cũ chăm sóc.
And I pressed her, and I asked her, "Why did you come back and get your care here?" And she was reluctant to tell me. She said, "The cancer center was wonderful. It had a beautiful facility, giant atrium, valet parking, a piano that played itself, a concierge that took you around from here to there. But," she said, "but they did not touch my breasts." Now you and I could argue that they probably did not need to touch her breasts. They had her scanned inside out. They understood her breast cancer at the molecular level; they had no need to touch her breasts.
Tôi nài ép cô ấy, tôi hỏi, "Tại sao bạn lại quay về chữa bệnh ở đây?" Và cô ấy rất ngại phải nói cho tôi. Cô ấy nói, "Trung tâm điều trị ung thư tuyệt vời lắm. Cơ sở vật chất rất đẹp, tiền sảnh khổng lồ, có người đậu xe cho, có đàn piano tự chơi, có nhân viên bảo vệ đưa mọi người đi đây đi đó. Nhưng," cô ấy nói, "họ hoàn toàn không chạm vào ngực mình." Bây giờ các bạn và tôi có thể cãi là có thể bác sĩ không cần phải chạm vào ngực của cô bạn kia thật. Họ cho cô ấy chụp ảnh cắt lớp từ trong ra ngoài. Họ hiểu về khối u trong ngực cô đến tầm phân tử; thế nên chẳng cần phải chạm đến ngực.
But to her, it mattered deeply. It was enough for her to make the decision to get her subsequent care with her private oncologist who, every time she went, examined both breasts including the axillary tail, examined her axilla carefully, examined her cervical region, her inguinal region, did a thorough exam. And to her, that spoke of a kind of attentiveness that she needed. I was very influenced by that anecdote.
Nhưng với cô ấy, việc đó quan trọng vô cùng. Đến mức cô ấy quyết định điều trị sau đó với bác sĩ ung thư riêng người mà, lần nào cô ấy đến khám, kiểm tra cả hai bầu ngực, kể cả mô dưới cánh tay, kiểm tra vùng dưới cánh tay kĩ càng, kiểm tra vùng cổ, vùng bẹn, kiểm tra vô cùng kĩ lưỡng. Và với cô ấy, việc đó thể hiện sự chú ý cẩn thận mà cô ấy cần. Tôi bị câu chuyện kể ấy tác động rất mạnh.
I was also influenced by another experience that I had, again, when I was in Texas, before I moved to Stanford. I had a reputation as being interested in patients with chronic fatigue. This is not a reputation you would wish on your worst enemy. I say that because these are difficult patients. They have often been rejected by their families, have had bad experiences with medical care and they come to you fully prepared for you to join the long list of people who's about to disappoint them. And I learned very early on with my first patient that I could not do justice to this very complicated patient with all the records they were bringing in a new patient visit of 45 minutes. There was just no way. And if I tried, I'd disappoint them.
Tôi cũng bị tác động bởi một trải nghiệm khác, lại cũng hồi tôi còn ở Texas, trước khi chuyển tới Stanford. Tôi vốn nổi tiếng là rất quan tâm tới các bệnh nhân bị mệt mỏi kinh niên. Cái danh tiếng này chắc bạn không nỡ rủa cho kẻ thù tệ nhất của mình phải mang đâu. Tôi nói vậy bởi có những người bệnh rất khó tính. Họ thường bị gia đình chối bỏ, có những trải nghiệm tệ hại với chăm sóc y tế họ đến gặp bạn để khám trên tinh thần là bạn sẽ nối dài danh sách những con người sẽ làm họ thất vọng. Và tôi sớm nhận ra với người bệnh đầu tiên là tôi không thể đánh giá đúng bệnh nhân vô cùng phức tạp này với cả đống hồ sơ họ mang vào trong một buổi khám có 45 phút được. Hoàn toàn không có cách nào. Và nếu tôi có cố thì cũng chỉ làm họ thất vọng mà thôi.
And so I hit on this method where I invited the patient to tell me the story for their entire first visit, and I tried not to interrupt them. We know the average American physician interrupts their patient in 14 seconds. And if I ever get to heaven, it will be because I held my piece for 45 minutes and did not interrupt my patient. I then scheduled the physical exam for two weeks hence, and when the patient came for the physical, I was able to do a thorough physical, because I had nothing else to do. I like to think that I do a thorough physical exam, but because the whole visit was now about the physical, I could do an extraordinarily thorough exam.
Và thế nên tôi sử dụng phương pháp này tôi đề nghị bệnh nhân kể câu chuyện đời của họ trong suốt lần khám đầu tiên, và tôi cố gắng không ngắt lời họ. Chúng ta biết rằng bình thường một bác sĩ ở Mỹ sẽ ngắt lời bệnh nhân trong 14 giây. Và nếu tôi được chọn lên thiên đàng thì đó là bởi vì tôi đã khóa môi trong 45 phút và không ngắt lời bệnh nhân của tôi. Sau đó tôi xếp lịch kiểm tra cơ thể hai tuần sau đó, và khi bệnh nhân đến khám thật, tôi có thể kiểm tra cơ thể vô cùng kĩ lưỡng vì tôi chẳng còn phải làm gì nữa. Tôi muốn nghĩ là tôi kiểm tra cơ thể kĩ lưỡng, nhưng bởi vì cả chuyển viếng thăm bây giờ chỉ tập trung vào cơ thể thôi, tôi kiểm tra cực kì cực kì kĩ lưỡng.
And I remember my very first patient in that series continued to tell me more history during what was meant to be the physical exam visit. And I began my ritual. I always begin with the pulse, then I examine the hands, then I look at the nail beds, then I slide my hand up to the epitrochlear node, and I was into my ritual. And when my ritual began, this very voluble patient began to quiet down. And I remember having a very eerie sense that the patient and I had slipped back into a primitive ritual in which I had a role and the patient had a role. And when I was done, the patient said to me with some awe, "I have never been examined like this before." Now if that were true, it's a true condemnation of our health care system, because they had been seen in other places.
Và tôi nhớ bệnh nhân đầu tiên của tôi trong hàng loạt bệnh nhân đó tiếp tục kể cho tôi nghe nhiều chuyện đời hơn trong lần khám mà đáng lẽ dành kiểm tra cơ thể thôi. Và tôi bắt đầu nghi lễ của riêng tôi. Tôi bắt đầu bằng cách xem mạch, rồi kiểm tra bàn tay, rồi tôi xem xét nền móng tay, và đẩy tay lên tới hạch bạch huyết cánh tay, và tôi đang trong quá trình thực hành nghi lễ. Và khi nghi lễ của tôi bắt đầu, bệnh nhân nói nhiều này bắt đầu im tiếng dần. Và tôi nhớ tôi cảm thấy lạnh tóc gáy rằng bệnh nhân này và tôi đã quay lại với một nghi lễ nguyên thủy trong đó tôi có vai trò riêng và bệnh nhân cũng có vai trò riêng. Và khi tôi đã xong, bệnh nhân nói với tôi với vẻ kính sợ, "Tôi chưa bao giờ được kiểm tra như thế này." Vâng, nếu đó là đúng, thì nó thật sự là lời chỉ trích mạnh mẽ tới hệ thống chăm sóc sức khỏe của chúng ta, bởi vì kiểm tra như vậy ở nơi khác cũng có.
I then proceeded to tell the patient, once the patient was dressed, the standard things that the person must have heard in other institutions, which is, "This is not in your head. This is real. The good news, it's not cancer, it's not tuberculosis, it's not coccidioidomycosis or some obscure fungal infection. The bad news is we don't know exactly what's causing this, but here's what you should do, here's what we should do." And I would lay out all the standard treatment options that the patient had heard elsewhere.
Tiếp đó tôi nói với bệnh nhân, khi anh ta đã mặc quần áo, cái điều căn bản mà nhất định anh ta đã được nghe ở các cơ sở khám bệnh khác, rằng, "Mệt mỏi không phải do anh tưởng tượng trong đầu. Nó có thật đấy. Tin tốt là, không phải là ung thư, không phải lao phổi, không phải nhiễm khuẩn sa mạc hay bệnh nhiễm nấm quái đản nào đó. Tin xấu là chúng tôi không biết đích xác căn nguyên bệnh là gì, nhưng đây là điều anh nên làm, đây là điều chúng ta nên làm." Và tôi trình bày tất cả các giải pháp điều trị tiêu chuẩn mà bệnh nhân đã nghe đâu đó rồi.
And I always felt that if my patient gave up the quest for the magic doctor, the magic treatment and began with me on a course towards wellness, it was because I had earned the right to tell them these things by virtue of the examination. Something of importance had transpired in the exchange. I took this to my colleagues at Stanford in anthropology and told them the same story. And they immediately said to me, "Well you are describing a classic ritual." And they helped me understand that rituals are all about transformation.
Và tôi luôn cảm thấy rằng nếu bệnh nhân của tôi từ bỏ việc tìm kiếm người bác sĩ màu nhiệm, phác đồ điều trị màu nhiệm và cùng với tôi bắt đầu hành trình tìm lại sức khỏe, là bởi vì tôi đã giành được quyền nói cho họ về những điều này thông qua cuộc kiểm tra. Một điều quan trọng đã xảy ra trong quá trình trao đổi ấy. Tôi mang việc này đến với đồng nghiệp khoa Nhân học ở Đại học Stanfod và kể cho họ câu chuyện ấy. Và ngay lập tức họ nói với tôi, "Ồ anh đang mô tả lại một nghi lễ kinh điển." Và họ giúp tôi hiểu rằng cốt lõi của các nghi lễ là sự biến đổi.
We marry, for example, with great pomp and ceremony and expense to signal our departure from a life of solitude and misery and loneliness to one of eternal bliss. I'm not sure why you're laughing. That was the original intent, was it not? We signal transitions of power with rituals. We signal the passage of a life with rituals. Rituals are terribly important. They're all about transformation. Well I would submit to you that the ritual of one individual coming to another and telling them things that they would not tell their preacher or rabbi, and then, incredibly on top of that, disrobing and allowing touch -- I would submit to you that that is a ritual of exceeding importance. And if you shortchange that ritual by not undressing the patient, by listening with your stethoscope on top of the nightgown, by not doing a complete exam, you have bypassed on the opportunity to seal the patient-physician relationship.
Chúng ta lập gia đình, lấy ví dụ thế, với bao nhiêu hoa mĩ, lễ nghi và phí tổn, đế đánh dấu sự xa rời khỏi một cuộc sống lẻ loi, khốn khổ, cô đơn đến một cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn. Tôi chả biết tại sao các bạn lại cười nhỉ. Mục đích ban đầu là như vậy, đúng không? Chúng ta đánh dấu sự chuyển giao quyền lực bằng các nghi lễ. Chúng ta đánh dấu sự ra đi của một sinh mạng với các nghi lễ. Nghi lễ quan trọng khủng khiếp. Chúng là cốt lõi của sự biến đổi. Vâng tôi muốn trình bày cho các bạn rằng nghi lễ trong đó một người đến với một người khác và kể cho người kia nghe nhiều thứ mà họ còn không kể cho cha đạo hoặc giáo sĩ của mình, và rồi, thật không tin nổi, bên cạnh đó, còn trút bỏ quần áo và cho phép ấn chạm -- tôi sẽ nói với bạn đó và một nghi lễ quan trọng vô cùng. Và nếu bạn lược bỏ nghi lễ đó bằng cách không cởi quần áo bệnh nhân, bằng cách đặt ống nghe lên trên áo khoác, bằng cách không kiểm tra toàn diện, bạn đã bỏ lỡ cơ hội được thắt chặt mối quan hệ y sĩ - bệnh nhân.
I am a writer, and I want to close by reading you a short passage that I wrote that has to do very much with this scene. I'm an infectious disease physician, and in the early days of HIV, before we had our medications, I presided over so many scenes like this. I remember, every time I went to a patient's deathbed, whether in the hospital or at home, I remember my sense of failure -- the feeling of I don't know what I have to say; I don't know what I can say; I don't know what I'm supposed to do. And out of that sense of failure, I remember, I would always examine the patient. I would pull down the eyelids. I would look at the tongue. I would percuss the chest. I would listen to the heart. I would feel the abdomen. I remember so many patients, their names still vivid on my tongue, their faces still so clear. I remember so many huge, hollowed out, haunted eyes staring up at me as I performed this ritual. And then the next day, I would come, and I would do it again.
Tôi cũng là nhà văn, và tôi muốn kết bài bằng cách đọc cho các bạn nghe một đoạn nhỏ mà tôi viết có liên quan rất lớn với khung cảnh này. Tôi là một bác sĩ bệnh truyền nhiễm, và trong buổi sơ khai của HIV, trước khi ta có thuốc điều trị, tôi đã chịu trách nghiệm với bao nhiêu cảnh như thế này. Tôi nhớ, mỗi lần tôi tới giường bệnh nhân đang lâm chung, dù ở bệnh viện hay ở nhà, tôi nhớ cảm giác thất bại của mình -- cảm giác tôi không biết tôi phải nói gì; tôi không biết tôi có thể nói được gì; Tôi không biết đáng lẽ tôi phải làm gì. Và từ cảm giác thất bại ấy, tôi nhớ, tôi sẽ luôn kiểm tra bệnh nhân. Tôi sẽ lật mí mắt, tôi sẽ kiểm tra lưỡi. Tôi sẽ gõ vào ngực. Tôi sẽ nghe tim. Tôi sẽ sờ vào bụng. Tôi nhớ có biết bao nhiêu bệnh nhân, tên của họ vẫn còn lưu rõ ràng nơi cuống họng tôi, gương mặt họ vẫn rõ nét. Tôi nhó biết bao nhiêu cặp mắt khổng lồ, trống rỗng, bất an, chằm chằm nhìn tôi khi tôi thực hiện nghi thức này. Và rồi ngày hôm sau, tôi sẽ lại tới, và tôi lại làm điều đó.
And I wanted to read you this one closing passage about one patient. "I recall one patient who was at that point no more than a skeleton encased in shrinking skin, unable to speak, his mouth crusted with candida that was resistant to the usual medications. When he saw me on what turned out to be his last hours on this earth, his hands moved as if in slow motion. And as I wondered what he was up to, his stick fingers made their way up to his pajama shirt, fumbling with his buttons. I realized that he was wanting to expose his wicker-basket chest to me. It was an offering, an invitation. I did not decline.
Và tôi muốn đọc cho các bạn đoạn kết này về một bệnh nhân. "Tôi nhớ có một bệnh nhân ở thời khắc đó chẳng hơn gì một bộ xương trong một bộ da nhăn nhúm, không thể nói gì, miệng anh ta bị vẩy nấm bao chặt mà thuốc thang thế nào cũng không làm thuyên giảm." Khi anh ta thấy tôi vào cái giờ mà hóa ra sẽ là giờ cuối cùng của anh trên dương gian, tay anh ta di chuyển như trong phim quay châm." Và khi tôi đang thắc mắc không biết anh ta định làm gì, những ngón tay như que củi của anh lần mò đến cái áo pijama của anh, loay hoay với cái nút. Tôi nhận ra rằng anh ta đang muốn cởi trần bộ ngực như cái giỏ tre cho tôi xem. Nó là một tặng phẩm, một lời mời gọi. Tôi không từ chối.
I percussed. I palpated. I listened to the chest. I think he surely must have known by then that it was vital for me just as it was necessary for him. Neither of us could skip this ritual, which had nothing to do with detecting rales in the lung, or finding the gallop rhythm of heart failure. No, this ritual was about the one message that physicians have needed to convey to their patients. Although, God knows, of late, in our hubris, we seem to have drifted away. We seem to have forgotten -- as though, with the explosion of knowledge, the whole human genome mapped out at our feet, we are lulled into inattention, forgetting that the ritual is cathartic to the physician, necessary for the patient -- forgetting that the ritual has meaning and a singular message to convey to the patient.
Tôi gõ. Tôi bắt mạch. Tôi lắng nghe khoang ngực. Tôi nghĩ tới lúc đó hẳn anh ấy đã biết điều đó là tối quan trọng với tôi cũng như cần thiết cho anh ta. Không ai trong hai chúng tôi có thể bỏ qua nghi lễ này được, dù nghi lễ chẳng liên quan gì tới việc phát hiện ra tiếng lục đục trong phổi, hay là nhịp nhảy cóc tiêu biểu cho suy tim. Không, nghi lễ này dẫn tới duy chỉ một thông điệp mà y sĩ luôn cần truyền tải tới bệnh nhân. Dù, có Chúa Trời biết, gần đây, với sự kiêu ngạo của nghề nghiệp chúng tôi chúng tôi đã bỏ quên. Chúng tôi dường như đã quên mất rằng -- dù, trong thời bùng nổ tri thức, cả bản đồ gen của con người bày ra dưới chân, chúng tôi bị dụ dỗ tới mức lơ đễnh, quên mất cái nghi lễ thanh lọc với y sĩ, và cần thiết cho bệnh nhân -- quên mất rằng cái nghi lễ ấy có ý nghĩa và thông điệp duy nhất truyền tải tới bệnh nhân.
And the message, which I didn't fully understand then, even as I delivered it, and which I understand better now is this: I will always, always, always be there. I will see you through this. I will never abandon you. I will be with you through the end."
Và thông điệp mà khi ấy tôi không thật sự hiểu rõ, ngay cả khi tôi đã truyền thông điệp ấy, thông điệp mà ngày nay tôi đã hiểu rõ hơn là như thế này" Tôi sẽ mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi ở đó. Tôi sẽ chăm sóc anh qua cơn đau này. Tôi sẽ không bao giờ từ bỏ anh. Tôi sẽ ở bên anh tới khi mọi chuyện kết thúc."
Thank you very much.
Xin cám ơn các bạn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)